Rời quân ngũ với chiếc balo, vài bộ quần áo
lính. Cưới một cô giáo nghèo, dạy học ở vùng
đất nghèo xơ xác. Phải làm bảo vệ cho trường vợ để được sống nhờ trong khu tập
thể. Vài tháng sau, một cơn lốc quật đổ gần hết ngôi trường. Giữa bão tố kinh
hoàng, cái tổ nhỏ chưa kịp ấm đã phải ra ở nhờ nhà để xe đạp, dựng xiêu vẹo từ
tre nứa. Cô con gái đầu lòng được sinh ra trong hoàn cảnh ấy chưa đầy nửa tháng
thì tôi bị tai biến (08.1998). Cuộc sống đang hừng hực hy vọng, rằng, một túp lều
tranh… thì tất cả như chìm trong địa ngục.
Sau tuần hôn mê là một bầu trời đặc
quánh u ám. Lơ mơ vợ, lơ mơ con, thậm chí không hiểu mình là thứ gì và vì sao bị
ép ăn, ép thuốc… Rồi mọi bệnh viện đều trả về với lời khuyên “sống chung với… may mắn”. Người như
không xương. Chỉ còn đau và đau! Hàng trăm nghìn mũi kiếm, trăm nghìn dùi nung
đỏ đang đâm, đang thiêu từ trong não, trong tim ra ngoài da thịt. Sau mỗi cơn
co giật, não nhũn ra, người có cảm giác như đống thịt bằm, vô cùng khủng khiếp.
Sống lại được có lẽ do duyên trời, chứ không chỉ là kỳ tích. Đặc biệt là
choáng. Choáng quay cuồng, trở mình cũng nôn. Nôn đến rách họng, đến vỡ ngực, đứt
ruột. Đau đớn tột cùng. Bế tắc và suy sụp sau nhiều ngày tháng chỉ thấy toàn một
màn tối tăm, đen kịt. Một lần trên đường từ Bệnh viện 108 về nhà trọ, tôi lần
theo dòng người, bò lên cầu Long Biên để thỏa ước nguyện chấm dứt cơn đau, vì trong
đầu chỉ chắc chắn rằng, phải gieo xuống sông Hồng mới hết.
Lên đến thành cầu, gió thốc nổi
gai ốc. Cảm giác lạnh lan dần qua hai vai, xộc vào thẳng não. Tiếng gió chạy dọc
bờ sông văng vẳng như tiếng trẻ con khóc. Hình ảnh đứa con gái đầu lòng nằm tím
đen bên cạnh, khi bị mẹ quẳng xuống để chạy đi tìm người cấp cứu bố.
Tôi khựng lại. Một thước phim lờ
mờ hiện về lúc tôi bắt đầu thấy não nhũn ra, mọi thứ quay cuồng. Cảnh tượng vợ
con khóc ngất, mọi người chạy rầm rập giục giã, kêu gào thống thiết … Tôi bỗng
thấy mình đã hít được đầy một bầu ngực khí, không còn cảnh chỉ hít vào một hơi
nhỏ đã thấy hụt rỗng, ngực nhói như rìu bổ.
Tôi bỗng tin mãnh liệt là mình có
thể khỏe mạnh như xưa, mặc lời cảnh báo của cả chục bác sĩ sau khi khám, test
máu, chiếu chụp bằng các công nghệ hiện đại nhất, là: vô vọng!
Tôi lên chuyến xe dài nhất trong
cuộc đời để về nhà. Nhưng là về cho mỗi ngày lên cơn mấy bận, cấp cứu mấy bận…
dù máu vẫn còn đặc quánh thuốc. Tôi không còn đủ sức để thực hiện “ăn ngủ, sinh
hoạt, luyện tập… điều độ” như bác sĩ dặn, vì căn bản là nằm như thực vật. Những
lúc một mình cố cựa quậy, lần vịn lê la thì vừa nôn vừa ngã. Lâu dần, hình như
mọi thứ thuộc về tôi cũng quen, cũng nhạt vì chấp nhận và chờ đợi số phận nghiệt
ngã. Thuốc men không có, tiền nong khánh kiệt, người thăm cũng mỏi dần. Trống
trải và thưa vắng.
Những cơn kinh thiên động địa cứ
dày lên mỗi ngày. Một bữa, vợ lên lớp, tôi lên cơn co giật một mình. May mà cơn
nhẹ, sau vài tiếng thì lơ mơ tỉnh. Thấy có cái gì đó cồm cộm dưới đầu. Ráng hết
sức móc, hóa ra là 1 cuốn sách. Phải đợi đến lúc mắt hết xoay thì mới biết đó
là cuốn Tri thức trẻ. Nằm ê ẩm mãi cũng buồn, giở sách ra và bị hút vào bài: “Bệnh
động kinh có chữa được không?” của bác cựu chiến binh bị động kinh mấy
chục năm, tự chữa khỏi bằng kiên trì luyện tập và có hỗ trợ các loại thuốc chống
lên cơn. Tôi đợi vợ về, nhờ đi xuống Phân viện khu vực mượn cuốn biệt dược, rồi
độ tháng sau tôi tìm thấy trong hàng triệu triệu chữ đang quay cuồng hỗn loạn ấy
cái tên: Umitol. Nhưng loại thuốc này phải uống tới vài năm. Chính xác giờ, và
giảm dần liều sau mỗi 3 tháng.
Nản toàn tập! Thời gian với tôi
khi ấy, tính theo ngày. Tiền dĩ nhiên chưa bàn vì không có. Nhưng tôi vẫn cứ gượng
ngồi dậy, ôm bàn phác ra một biểu đồ điều trị, với hi vọng, “dự án” mà tôi
trình lên sẽ được vợ phê duyệt!
Liệu trình ấy như sau: 3 tháng đầu
(Đợt 1) uống 2 viên/lần; 2 lần/ngày. Đợt 2 giảm xuống 1 viên + 3/4 viên/lần, 2
lần/ngày. Đợt 3 xuống 1 + 2/4 viên/lần; 2 lần trên ngày. Đợt 4 xuống 1 +
1/4viên/lần; 2 lần/ngày… Cứ thế, sau 9 đợt (2 năm 5 thán) sẽ giảm xuống chỉ còn
uống 1/4 viên/ngày, 2lần/ngày và cắt hẳn nếu như tình trạng bệnh ổn định. Đấy
là với điều kiện uống thông một lèo, vì loại thuốc này không thể ngưng đột ngột.
Nếu ngưng (quên, hoặc hết thuốc) thì sẽ phải uống lại từ đầu…
Tôi rơi vào ngõ cụt. Suy sụp còn
hơn cả lần đầu biết mình sẽ phải chết. Nó giống như một dự án vá trời… Nhưng bệnh
càng hành hạ, mình càng tự hành hạ, cỡ nào cũng không chịu chết, vậy thì phải sốc
lên! Sống hoặc chết chứ nhất quyết không làm bóng ma dặt dẹo. Tôi lệnh cho mình
phải lao vào cuộc chiến, đầu tiên là tập luyện, cả thể dục lẫn khí công. Không
có tiền thì có ý chí, có quyết tâm. Chập chững như đứa trẻ, tập chất lên vai,
chất lên lý trí cả gánh nặng cuộc đời mình. Mỗi ngày tôi niệm hàng ngàn lần câu
thần chú duy nhất: “Không cố sẽ chết!”
Và dường như câu thần chú ấy đã đúng trong mọi hoàn cảnh.
Nôn mãi, quay cuồng mãi rồi cũng
quen. Choáng, ngất xong thì cũng phải tự tỉnh. Tôi không cho phép mình phàn
nàn, nản chán bất kỳ hoàn cảnh nào. Tôi bắt đầu cố lau từ cái mặt mình, đến rửa
chân mình, rồi dần dà tắm gội được cho mình. Tôi lau bàn, quyét nhà, nấu cơm…
giúp vợ. Ý chí và công việc cứ nhích dần lên từng ngày. Rồi thì tôi viết báo -
một việc cấm kỵ với người bị bệnh não như tôi - với quan niệm rất đơn giản:
Không làm được gì thì viết báo. Viết báo cũng có tiền.
“Hành trang chỉ là những lỗi
chính tả”, thì tôi mượn từ điển, đọc như đọc tiểu thuyết. Tôi cũng đọc tất cả
những gì nhặt được ngoài đường, từ mẩu báo gói bánh rán đến cục giấy lau giầy…
Tôi nhặt bút bi học sinh vứt đi, cái nào hỏng ngòi thì thay, tắc thì luộc cho mực
chảy ra mà viết. Tôi xin vợ cho rọc những bài kiểm tra của học sinh thừa giấy.
Tôi viết bất kỳ gì và viết thiêu thân, như thể không còn được viết nữa. Và, năm
đầu tiên hàng trăm bài gửi đi đều mất hút. Tôi lại niệm thần chú: “Không cố sẽ chết!”… Lại lao đầu vào đọc,
học, mổ xẻ từng bài trên báo… . Và thành quả là sau 2 năm sau tôi trở thành
“nhà báo tự do”, cộng tác với mấy chục tờ báo Trung ương - những bài viết nối
đuôi nhau sinh ra sau những cơn co giật.
Bây giờ cách ngưỡng tử ấy 21 năm,
tôi đã là hội viên Hội Nhà văn, có một sức khỏe tạm tạm và cuộc sống cũng tàm tạm.
Nhớ lúc bắt đầu có nhuận bút, tôi trình “dự án” khai quật lại sự sống của mình
với vợ, cô ấy chỉ thở dài. Thì thế, ai cũng sẽ tin các bác sĩ hơn tin tôi! Và tôi
lặng lẽ lập thêm kế hoạch, ngày làm (vào bản vùng sâu mượn đất, dựng lều nấu rượu,
nuôi lợn, mở quán hàng xén)… đêm mới viết và tự quyết định mua Umitol!
Hành trình của cái dự án điên
khùng” ấy, rốt cuộc phải kéo dài hơn 7 năm, với hàng trăm cơn dọa co giật lại.
Tôi không quên uống thuốc, nhưng 3-4 lần không có tiền mua thuốc nữa, phải uống
lại từ đầu. Ngoài đặc ân loại thuốc này đem đến cho tôi ra thì, tác hại vô cùng
lớn. Tôi bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng. Như thằng nghiện! Lờ đờ cá chết.
Thể trạng giống HIV, sứt da là không chịu khỏi.
7 năm mất trí nhớ, quên cả tên bố
mẹ. Người vốn đang khỏe như vâm (bạn bè tôi gọi là Lợi 100: Hít đất 100 cái; đẩy
tạ: 100 lần; “thụt dầu” hơn 100 cái…), mà bỗng dưng như xác sống. Sau này biết,
do những cơn hôn mê sâu, não mất ô xy nên không chỉ rối loạn mô não, mà các tế
bào thần kinh của tôi đã bị hủy hoại...
Hành
trình của tôi còn dài lắm. Tôi thật sự cảm ơn tất cả, trong đó có số phận, câu
thần chú và cả những lời được dành tặng - Ý chí - nữa!
21 năm trời luôn tràn ngập lòng
tin và quyết tâm tột bậc, nỗ lực tột bậc. Tôi nói vui, ước một lần, có thứ gì
đó đủ khiến tôi nản và đầu hàng. Tôi muốn trải nghiệm!
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét