Quan
điểm của Chu Giang – Nguyễn Văn Lưu: “Giễu
nhại một con người như thế là một việc làm vô đạo, thất đức, bất nhân, bất
nghĩa. Người dân thường ít chữ nghĩa cũng không bao giờ làm thế. Nếu đồng thanh
tán thưởng một Luận văn như thế, tôi không hiểu văn hóa của người hướng
dẫn khoa học, của Hội đồng chấm luận án, của những người đọc, trao đổi, giúp đỡ
tài liệu, khích lệ việc làm này là văn hóa gì, thuộc về một thứ văn hóa nào? Và
tại sao nó lại có thể tồn tại và ngang nhiên hoạt động trong trung tâm sư phạm
trọng điểm của quốc gia như vậy? Chỉ riêng sự giễu nhại này cũng đủ lý do để
hủy bỏ Luận văn của nghiên cứu sinh Đỗ Thị Thoan. Luận văn này vi phạm nhiều
điều của Luật xuất bản. Vì vậy chúng tôi cấp thời đề nghị phải lập tức đình chỉ
việc giảng dạy của cô giáo Nhã Thuyên - dù là giảng dạy hợp đồng. Đồng
thời hủy bỏ Luận văn, hủy bỏ học vị Thạc sĩ của tác giả Luận văn, xem
xét lại tư cách của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Nguyễn Thị Bình và trách
nhiệm của Hội đồng chấm Luận văn này. Không thể để tiêm nhiễm vào các nhà giáo
tương lai một thứ văn hóa phản nhân văn, bất nhân bất nghĩa như thế”.
VẤN
ĐỀ Ở KHOA VĂN ĐHSP HÀ NỘI
Một luận
văn kích động sự phản kháng và chống đối
Thế là gần hai mươi năm
qua Thạc sĩ Nguyễn Thị Bình vẫn giữ quan niệm văn học sai lầm mà vẫn trở thành
PGS-TS-Nhà giáo ưu tú - Tổ trưởng tổ văn học hiện đại Việt Nam để hướng dẫn
nghiên cứu sinh Đỗ Thị Thoan (tức Nhã Thuyên) hoàn thành luận văn Thạc sĩ “VỊ
TRÍ CỦA KẺ BÊN LỀ: THỰC HÀNH THƠ CỦA NHÓM MỞ MIỆNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA” đạt kết
quả xuất sắc với điểm 10 tuyệt đối. Đây là một chương hài hước đặc sắc nhất trong
lịch sử Trường ĐHSP Hà Nội.
Lời cảm ơn của tác giả
Luận văn (từ đây xin viết tắt LV) nói lên phần nào tinh thần Umour ấy: “Tôi
muốn bày tỏ sự tri ân sâu sắc tới Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình, người
hướng dẫn luôn sẵn lòng cởi mở đón nhận những ý kiến đa dạng về các hiện tượng
đương đại. Cảm ơn Tiến sĩ Võ Văn Nhơn, Tiến sĩ Đỗ Lai Thúy, những người không
ngần ngại chia sẻ tư liệu và trao đổi. Cảm ơn Thạc sĩ Trần Ngọc Hiếu vì sự sâu
sắc đa dạng trong các bài viết về thơ ca và lý thuyết chứa đựng nhiều tiềm năng
kích thích và gợi mở quý báu... (và nhiều người khác)”.
Nội dung của Luận văn đã
được đưa vào tiểu luận “Những tiếng nói ngầm”, có đôi chút khác nhau chỉ
là sự trau chuốt, thêm Lời ngỏ và cắt tỉa những chỗ quá khiêu khích
trắng trợn mà chúng tôi sẽ phân tích sau.
Vấn đề rất quan trọng ở đây là sự khác nhau giữa
Luận văn và tiểu luận. Một tác giả tự do đăng tải trên mạng. Các cư dân mạng có
thể tiếp nhận ở những mức độ khác nhau, có thể người ta không đọc, có thể được
tán thưởng, có thể bị phản đối một cách quyết liệt, như hồi ký của một vị giáo
sư cách đây mấy năm.
Nhưng một Luận văn cao
học trong một cơ sở đào tạo của Nhà nước thì có tính pháp quy. Đại học Sư phạm
Hà Nội là trường đại học trọng điểm của quốc gia, tính pháp quy của Luận văn
càng phải chặt chẽ. Luận văn phải lưu ở thư viện quốc gia, là tài liệu chính
thức cho người nghiên cứu, tham khảo. Tác giả Luận văn lại là người giảng dạy,
trực tiếp đứng lớp thì học trò phải học theo. Vì thế cần phải vạch rõ tính chất
nguy hại của Luận văn này.
Ngay trong tên của Luận
văn, thì góc nhìn văn hóa ở đây là góc nhìn nào? Thuộc về một thứ văn
hóa nào? Nó vừa mập mờ che mắt người đọc, vừa ngầm chứa một ý tưởng xấu. Thông
thường người ta hiểu từ Văn hóa là hay là tốt, là đúng... nhưng đọc
vào nội dung mới thấy góc nhìn của Luận văn là góc nhìn phản văn hóa. Hãy
xem Lý do chọn đề tài của tác giả Luận văn.
Nếu coi văn hóa là một
chỉnh thể, thì cái chỉnh thể này, bất kể không gian hay thời gian, luôn bao gồm
cái hiện diện và cái vắng mặt, dòng chính (mainstream) và dòng ngầm
(underground). Theo đó, dòng chính thường được coi như là trung tâm, là hệ quy
chuẩn cho những định giá trong tiếp nhận, cũng có nghĩa nó mang quyền năng chi
phối và tác động, quyền năng hình thành quy phạm, hình thành thiết chế. Tuy
nhiên, luôn luôn xảy ra quá trình giải quy phạm và phá hủy thiết chế, nhất là
khi thiết chế đó bộc lộ sự xơ cứng và bảo thủ, diễn ra ngay trong dòng chính
như một quy luật của vận động. Và không khó hiểu, ở những thời điểm khủng
hoảng, những cuộc cách mạng/khởi loạn thường xảy ra (Luận văn - trang 3). Vâng! Nhưng không phải hầm bà lằng, tạp
pí lù đâu!
Và đây nữa, là “văn hóa” khi nhận xét, bình luận các hiện tượng văn học:
Việc Nguyễn Huy Thiệp nhét cứt vào miệng kẻ sĩ
Bắc Hà để hạ bệ thần tượng hoàn toàn khác việc Mở Miệng đưa chuyện cứt đái ra
nói công khai như những kẻ mua vui nhàn rỗi cho quần chúng bằng thơ tiếu lâm.
Nguyễn kết thúc thời kỳ anh hùng bằng việc trộn lẫn hư cấu và lịch sử, nhưng
vẫn kỳ vọng vào sự thay đổi và “quyền được nói sự thật”, và cuộc chiến đấu của
Nguyễn vẫn là cuộc chiến đấu với một ý thức hệ bao trùm. Các nhà thơ “phản
kháng” trong bối cảnh hậu đổi mới như Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Phan
Bá Thọ, Mở Miệng, hay nhiều nhà thơ khác xuất bản trên Tiền Vệ hay Damau, thể
hiện sự phản kháng bằng nhận thức rộng rãi hơn về bối cảnh. Họ văng tục và nói
về cứt đái nhưng muốn lật đổ hơn là xây dựng. Họ không thể gây hấn chỉ bằng
cách nỗ lực nói sự thật, vì niềm tin vào sự thật cũng không còn (Luận văn - trang 31).
Và đây có thể xem là mục tiêu “văn hóa” của Luận văn, khi định giá trị của cái ngoại vi, cái khác (other), cái bên lề:
Cái bên lề xuất hiện đòi
làm cách mạnh khi cái trung tâm trở nên cỗi già. Quá trình kết tụ sức mạnh
thành dòng ngầm của những cái bên lề và “gây hấn” ở những thời điểm cách mạng
không phải là một thuộc tính văn chương, mà là một hiện tượng phổ biến và nằm
trong bản chất của vận động, do đó, cũng là một hiện tượng vận động có tính quy
luật của lịch sử văn học, ở bất kỳ thời gian, không gian, trong bất kỳ thể chế
nào, mọi thời đại, mọi quốc gia, lãnh thổ. Nó luôn là biểu hiện của một nỗ lực
tìm kiếm ý thức văn hóa mới có tính chất thay thế, làm đối tượng với cái đang
trở nên già cỗi, mòn sáo và chuyên chế (Luận văn - trang 25).
Mặc dù Luận văn trưng bày nhiều lý thuyết của nước ngoài làm cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu như khái niệm LỀ (margin) hay SAMIZDAT (tự xuất bản), tựu trung chỉ để khẳng định, đề cao thực hành thơ của nhóm MỞ MIỆNG. Và đây là sự đánh giá của Luận văn về sự giải phóng ngôn ngữ, về “hai thứ taboo vào loại lớn nhất, nguy hiểm nhất trong các xã hội Việt
Hiếm có bài thơ nào sử dụng những chữ vốn bị cho là cấm kỵ tài tình và hấp dẫn đến thế, thẳng băng ngang hàng, không kêu gọi lật đổ, mà bản thân nó đầy sức mạnh lật đổ. Xin đọc một đoạn:
“Nếu Jesus không hỏi:
trong các người ai chưa từng Đụ thì hãy ném vào chị ta?! (Sự hổ thẹn của họ đã
cứu Magdalena khỏi trận mưa đá). Sao
không có sự hổ thẹn nào để trả lại công bằng cho Lồn, Cặc, & Đụ? Khi nhắm
mắt lại (đưa tâm về với thân), tôi thấy chúng là tinh tú, những vật linh, có
năng lượng của xúc cảm hùng vĩ & hoạt tính thần bí. Lồn là vọng âm của
trống, của chuông & của ký ức nguyên thủy [...] Và khi tôi phát âm “Lồn”,
tôi nghe rõ tiếng vọng của nó rền vang từ mộ chí lịch sử, từ trong cái từ bi
bát ngát của Bụt & từ trong cái bất an kỳ cùng của ký ức. Mười năm qua, tôi
bị 3 lần bồ đá, bị một lần vợ sang ngang & tôi buộc phải trở thành một kẻ
chỉ Đụ cát. Không biết bao nhiêu lần tôi nằm sấp trên cát, mắt lim dim dịu dàng
nhìn mặt trời mọc. Nhìn một hồi tôi thấy có sự chuyển dịch từ đỏ sang đen. Nó
không còn là một quầng sáng đỏ lấp lánh, nó biến thành một lỗ đen lung linh
& ám ảnh. Máu trong người tôi bắt đầu tăng tốc & lượng hồng cầu ưu tú
nhất hối hả dồn xuống đan điền. Cặc tôi ấm và cứng. Cặc tôi rưng rưng. Cặc tôi
mừng húm. Tay tôi bấu xuống cát,
bụng tôi áp xuống cát, miệng tôi há hốc vì cát & mông tôi xoay” (Luận văn - trang 67).
Xin lỗi bạn đọc, nhưng cần phải tiếp cận đúng nội dung văn bản để hiểu được tư tưởng của Luận văn, cũng như góc nhìn văn hóa của người hướng dẫn khoa học và Hội đồng chấm luận án. Thà nói thẳng ra một lần rồi thôi để không phải tranh đi cãi lại. Đây lại là Luận văn có tính pháp quy, không được trích dẫn sai lệch và lại cũng phải dân chủ, để đông đảo bạn đọc, các bậc phụ huynh của sinh viên Trường ĐHSP Hà Nội biết được các thầy giáo, cô giáo, những người tham gia giảng dạy và đào tạo cho nhà trường, đang giảng dạy, đào tạo con em họ như thế nào.
Nhã Thuyên cũng tán
thưởng thi pháp giễu nhại, chế tác - xem là “Thái độ hủy diệt mọi thành
tựu quá khứ này tiếp tục cái gọi là tính chất lật đổ, đầy nhạo báng, một cách
có ý thức” (Luận văn - trang 91).
Xin dẫn ba trường hợp:
1. Hỏi đáp có thưởng
Tôi hỏi
đất: - Đất sống với đất như thế nào?
- chúng tôi
tôn cao nhau [heo]
Tôi hỏi
nước...
Tôi hỏi
thỉnh:
- thỉnh
sống với thỉnh như thế nào?
[ôi dào!]
Tôi hỏi
người:
- thỉnh
sống với người như thế nào?
[ôi dào!]
Tôi hỏi
người:
- thỉnh
sống với người như thế nào?
[ôi dào!]
Nguyên liệu: Hỏi của Hữu Thỉnh
(Luận văn -
trang 93)
2. Chọn lựa của Văn Cao
Giữa sự
sống và sự chết
Ông chọn sự
sống
Để bảo vệ
sự sống
Ông chọn sự
chết
Thế là hết
[the end)
Nguyên liệu: Chọn của Văn Cao
Bài thơ của Văn Cao,
thường được đọc như một bi kịch của lựa chọn. Cái tâm trạng và sự lựa chọn bi
kịch đó, một cách nghiêm túc, có thể coi như một khát vọng hướng thượng, mọi
thứ mĩ học sự sống. Tuy nhiên, cái bi khi bị đẩy vào tình trạng nghiêm trang
cũng có thể làm nảy ra cái hài, và Bùi Chát phát hiện ra nghịch lý hài hước đó.
Không phải Bùi Chát muốn tấn công một nhà thơ lớn, mà anh muốn nhạo báng lý
tưởng, cái lý tưởng hướng thượng vốn chẳng dễ dàng gì được thực hiện trong cuộc
đời trần tục, cũng chẳng dễ dàng có được trong thời đại mất lý tưởng - lý tưởng
trở thành một thứ “từ ngữ” nghiêm trọng mà thơ ca có lẽ cần giải bỏ. Kết tinh
trong từ “lý tưởng” đó, là cả một quá khứ đau thương, hào hùng, đầy bi kịch của
dân tộc, mà cái kết cục vừa bi thảm vừa hài hước: thế là hết. Như một bộ phim,
một vở kịch phi lý. Mấy chữ “thế là hết” (the end) cũng có thể được đọc như một
bình luận tương tác của người xem với vở kịch nghiêm trang này (Luận văn - trang 92).
3. Giễu nhại Chủ tịch Hồ
Chí Minh
Tập bài thơ một vần của
Bùi Chát, mặc dù là thơ tự do, nhưng tính chất một vần nằm ở từ khóa cộng sản.
Bùi Chát lật đổ các slogan xã hội, các ảo tưởng được đóng đinh trong ngôn ngữ ý
thức hệ. Chẳng hạn:
Đường Kách
Mệnh
Đi một ngày
đàng, học [& hành] một giường khôn
Con đường
nối những con đường
Dẫn tới các
nhà thương
Ngồi một
mình
Em nói như
mưa
Thì tại sao
chúng ta không lên giường
Để đào
những cái mương
Giữ mãi lời
thề xưa
Đường Kách Mệnh: một tác
phẩm của cố Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Hồ Chí Minh, tập hợp các
bài giảng tại lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng
chí hội, được xuất bản 1927.
Chú thích của tác giả (Luận văn - trang 71).
Chế tác, giễu nhại nơi
vỉa hè quán xá là chuyện thông thường. Bịt miệng vò miệng chĩnh không bịt được
miệng thế gian. Người hiểu biết họ tránh xa. Người vô minh xúm lại. Nhưng chế
tác, giễu nhại chính thức trên sách báo, thành văn bản, xã hội hóa lại là
chuyện khác, quan hệ đến luật pháp. Chân dung nhà văn của Xuân Sách
là một ví dụ mà chúng tôi đã đề cập trong Luận chiến văn chương - Q.2, NXB Văn
Học 2012. Nay không nhắc lại.
Nhưng giễu nhại Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con
người: Tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là Đại
gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ
nữ Việt Nam là
chị em của tôi. Tôi chỉ có một ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được Độc lập,
thống nhất, dân chủ.
Bao giờ đạt được mục
đích đó tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngạo thủy, đọc sách làm
vườn (Trả lời một nhà báo nước ngoài - Paris 1946)-(Xem VN TP. Hồ Chí Minh, số 196, ngày 5-4-2012, trang 2).
Giễu nhại một con người
như thế là một việc làm vô đạo, thất đức, bất nhân, bất nghĩa. Người dân thường
ít chữ nghĩa cũng không bao giờ làm thế. Nếu đồng thanh tán thưởng một Luận văn
như thế, tôi không hiểu văn hóa của người hướng dẫn khoa học, của Hội đồng
chấm luận án, của những người đọc, trao đổi, giúp đỡ tài liệu, khích lệ việc
làm này là văn hóa gì, thuộc về một thứ văn hóa nào? Và tại sao nó lại có thể
tồn tại và ngang nhiên hoạt động trong trung tâm sư phạm trọng điểm của quốc
gia như vậy?
Chỉ riêng sự giễu nhại
này cũng đủ lý do để hủy bỏ Luận văn của nghiên cứu sinh Đỗ Thị Thoan. Luận văn
này vi phạm nhiều điều của Luật xuất bản. Vì vậy chúng tôi cấp thời đề nghị
phải lập tức đình chỉ việc giảng dạy của cô giáo Nhã Thuyên - dù là giảng dạy
hợp đồng. Đồng thời hủy bỏ Luận văn, hủy bỏ học vị Thạc sĩ của tác
giả Luận văn, xem xét lại tư cách của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Nguyễn
Thị Bình và trách nhiệm của Hội đồng chấm Luận văn này. Không thể để tiêm nhiễm
vào các nhà giáo tương lai một thứ văn hóa phản nhân văn, bất nhân bất nghĩa
như thế.
Chúng tôi muốn góp ý với
các bạn đồng nghiệp là nhà văn Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện Văn học và
nhà văn Văn Giá - Trưởng khoa Lý luận - phê bình văn học Trường Đại học Văn hóa
(Bộ Văn hóa), hai thành viên Hội đồng chấm luận án và Chủ tịch Hội Nhà văn Hà
Nội Phạm Xuân Nguyên - người đã đọc bản thảo “Những tiếng nói ngầm” cho
Nhã Thuyên - rằng các bạn nên giữ sự trung thực cho ngòi bút của mình, nên tự
trọng về nhân cách. Các bạn có thể xin ra khỏi Đảng, tự nguyện trả lại các chức
danh và học vị mà thể chế này - do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập – đã phong
tặng cho các bạn rồi làm một nhà văn tự do thì hay hơn là lập lờ hai mặt như vị
thầy của các bạn: Vẫn ca ngợi, kính phục Dương Thu Hương: người phụ nữ một
mình chống lại cả một Nhà nước - nhưng mà giải thưởng, chức danh Nhà nước
ấy trao cho vẫn vui vẻ nhận, lại còn thắp hương khấn vái xin cho được nữa. Cũng
mong Ngài Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đừng để ĐHSP Hà Nội thành ra một
Trung tâm Hài hước như thế.
Nguồn: Văn Nghệ TPHCM
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét