Theo
Ðỗ Thị Thoan và PGS, TS Nguyễn Thị Bình, sản phẩm của Mở Miệng là "sự phát
triển" của thơ Việt Nam? Chọn góc nhìn văn hóa để tiếp cận cũng tức là phải
sử dụng các giá trị có tính văn hóa để định tính đối tượng, vì thế chẳng lẽ họ
lại coi sự tục tĩu, tính phản văn hóa trong sản phẩm của Mở Miệng là sự phát
triển? Nếu thật sự hiểu biết về văn hóa và về tính văn hóa trong các sản phẩm
do con người sáng tạo, họ sẽ tự thấy, không cần tới "áp lực chính
trị", và càng không cần tới "cơ quan an ninh văn hóa", không có
bất kỳ cơ quan truyền thông nào lại muốn đăng tải "thơ rác, thơ dơ"
của Mở Miệng. Công bố loại sản phẩm đó là tự đặt vào thế đối lập với quan niệm,
thị hiếu lành mạnh của công chúng.
NHÂN DANH “NGHIÊN CỨU”
ĐỂ CA NGỢI THỨ “THƠ” RÁC RƯỞI
CẨM KHÊ
Hơn mười năm trước, trên
internet xuất hiện loại sản phẩm được gọi là "thơ" của một số người
mà sau khi công bố, đã lập tức được định danh là "thơ rác, thơ dơ".
Rồi cùng với thời gian, được vài ba cây bút là người Việt ở nước ngoài cổ vũ,
mấy người viết này không dừng lại ở thứ ngôn từ tục tĩu mà đã đi xa hơn, bằng
việc sử dụng sản phẩm của họ để công kích một số giá trị cao quý của dân tộc,
công kích chế độ xã hội. Và đáng tiếc, tại một trường đại học, thứ
"thơ" chủ yếu trôi nổi trên internet ấy lại có người nghiên cứu, ca
ngợi, và có thể đã được truyền bá trên giảng đường?
Cuối tháng 12-2011, Trung
tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace) ra thông cáo báo chí về việc tổ chức
cuộc tọa đàm với chủ đề: "Những tiếng nói ngầm: thơ Việt Nam hậu đổi
mới" - thảo luận về một xu hướng vận động trong thơ Việt Nam đương đại,
trong đó khẳng định: "Buổi thảo luận là một nỗ lực đưa ra những kiến giải
về xu hướng vận động của văn chương "ngầm" trong bối cảnh nghệ thuật
phi chính thống Việt Nam, một xu hướng đã nổi lên và phát triển như một đối
trọng văn hóa đáng kể với văn chương dòng chính trong sự thoái trào của làn
sóng Ðổi mới và bối cảnh toàn cầu hóa, từ khoảng những năm 90 của thế kỷ trước
đến nay... Nhã Thuyên sẽ trình bày một phần kết quả nghiên cứu trong dự án cá
nhân Những tiếng nói ngầm trong thơ Việt Nam hậu đổi mới, trong đó nhấn mạnh
vào sự cần thiết của việc hiểu bối cảnh hình thành, phát triển, sự tiếp nối/đứt
đoạn của thơ Việt Nam đương đại với truyền thống, quá trình bên lề hóa như một
nỗ lực khẳng định những tiếng nói khác trong văn chương, với sự đề cập sâu hơn
ở các hiện tượng thơ như nhóm Mở miệng và các nhà thơ bên lề khác". Sau
đó, dù cuộc tọa đàm không tiến hành thì theo Nhã Thuyên, tạp chí Tia sáng và
Không gian sáng tạo Trung Nguyên đã cho chị "cơ hội để công bố một phần
kết quả nghiên cứu của mình trong buổi thuyết trình thay thế Một góc thơ
Việt Nam đương
đại vào ngày 23-6-2012".
Từ sự kiện này, một câu
hỏi đặt ra là: Công trình nghiên cứu của Nhã Thuyên có giá trị tới mức nào để
L’Espace tổ chức tọa đàm? Câu hỏi này có lẽ chỉ người liên quan mới có thể trả
lời. Còn đọc Những tiếng nói ngầm của Nhã Thuyên công bố trên một trang mạng
của người Việt ở nước ngoài và so sánh với Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn
(bản hiện lưu tại Thư viện Ðại học Sư phạm Hà Nội có số V-LA1/4784 - Luận văn)
của Ðỗ Thị Thoan - tức Nhã Thuyên, do PGS, TS Nguyễn Thị Bình hướng dẫn, bảo vệ
năm 2010 tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội, với đề tài Vị trí của kẻ bên lề:
thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn hóa sẽ thấy mối khăng khít giữa
hai văn bản, nếu không nói Những tiếng nói ngầm thoát thai, mở rộng từ Luận
văn. Vì thế, một câu hỏi khác lại được đặt ra: Thơ của nhóm Mở miệng có giá trị
như thế nào để Trường đại học Sư phạm Hà Nội thực hiện một luận văn thạc sĩ và
bảo vệ thành công 10/10; và từ góc nhìn văn hóa, Ðỗ Thị Thoan cùng người hướng
dẫn đã đánh giá ra sao về các sản phẩm của Mở miệng?
Giữa những năm 90 của thế
kỷ trước, một vài trang mạng ở nước ngoài công bố sản phẩm của một số người
viết ở trong nước tụ tập trong nhóm tự đặt tên là Mở miệng. Thời kỳ đầu, mấy
người này chủ yếu lấy thơ của tác giả khác rồi sửa sang, thêm thắt để biến
thành của mình. Như từ bài thơ Thời hoa đỏ của Thanh Tùng, Bùi Chát đã chế tác
thành Thời hoa đỏ lè với các câu như: "Dưới màu hoa như lửa cháy
khát khao nhậu - Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng vẻ..." và có người
gán cho công việc đó cái nhãn hiệu mỹ miều là "giễu nhại"! Dần dà,
mấy người trong Mở miệng bắt đầu công bố các văn bản chứa đầy thứ ngôn từ tục
tĩu mà dẫn lại ở đây sẽ là xúc phạm văn hóa, xúc phạm thơ ca, và chắc chắn cả
những người ca ngợi cũng không thể đọc cho con cái họ nghe. Và rồi, Mở miệng
không dừng lại ở sự tục tĩu, họ đã dùng "thơ" để công khai bày tỏ
thái độ chống đối, phỉ báng một số giá trị cao quý của văn hóa dân tộc.
Sự xuất hiện của thứ
"thơ" bẩn thỉu này sớm bị phê phán, như đầu năm 2006 báo Công an TP
Hồ Chí Minh đăng bài Nhóm "Mở miệng" với thứ rác rưởi được gọi là thơ
của Trúc Linh. Về "thơ" của một số người, trong đó có nhóm Mở miệng,
nhà thơ Triệu Lam Châu khẳng định: "Tâm hồn chân chính của mỗi bạn đọc yêu
thơ cần phải tăng cường sự miễn dịch đối với những loại thơ như vậy hoặc tương
tự như thế!". Có thể coi đánh giá của Hoàng Lan trên một website của người
Việt ở nước ngoài là phù hợp sản phẩm đó: "Cảm giác chung khi tiếp cận
những bài thơ trên là một cảm giác không thoải mái chút nào, không
"thơ" chút nào. Người đọc bị cuốn vào một thế giới xô bồ, bực bội, bế
tắc, đạp đổ và văng tục vào tất cả... đọc những bài thơ trên đây, người đọc bị
choáng trong một thế giới mà ở đó ý thức văn hóa, ý thức về cái đẹp, ý thức về
những quan hệ nghĩa tình gia đình, cộng đồng, dân tộc không còn nữa, mà nhường
chỗ cho cái tôi cực đoan ít nhiều đã bị tha hóa... đọc những bài thơ ấy người
đọc bình thường sẽ bỏ đi. Vì trong khi đối thoại với nhà thơ, họ luôn bị nhà
thơ văng tục vào mặt (...), luôn phải hứng chịu những bực bội, những đập phá,
những hành vi thiếu văn hóa của nhân vật trong thơ. Ðiều đáng thương là không
biết nhà thơ bực bội vì cái gì, muốn văng tục vào cái gì, muốn đạp đổ vào cái
gì"!
Song Ðỗ Thị Thoan và
người hướng dẫn lại coi sản phẩm của Mở miệng: "hấp dẫn cộng đồng nghệ
thuật và giới trí thức trong/ngoài nước, như biểu hiện của nỗ lực trên hai
phương diện của nghệ sĩ: đổi mới nghệ thuật và đòi hỏi tự do ngôn luận"
(Luận văn, tr.4). Trong Luận văn, sau khi phân tích rối rắm về "dòng
chính" và "dòng ngầm" rốt cuộc, Nhã Thuyên cùng người hướng dẫn
muốn hướng tới sự "thừa nhận chính thức" với sản phẩm của Mở miệng.
Vì với họ: "Dưới áp lực chính trị, truyền thông dòng chính nhìn dòng văn
chương này với con mắt kiêng dè, xa lánh, vì "không chính thống". Cơ
quan an ninh văn hóa Việt Namvẫn tìm cách kiểm soát và ngăn chặn sự phát
triển này" (Luận văn, tr.4)! Như vậy, theo Ðỗ Thị Thoan và PGS, TS Nguyễn
Thị Bình, sản phẩm của Mở miệng là "sự phát triển" của thơ Việt Nam ? Chọn góc
nhìn văn hóa để tiếp cận cũng tức là phải sử dụng các giá trị có tính văn hóa
để định tính đối tượng, vì thế chẳng lẽ họ lại coi sự tục tĩu, tính phản văn
hóa trong sản phẩm của Mở miệng là sự phát triển? Nếu thật sự hiểu biết về văn
hóa và về tính văn hóa trong các sản phẩm do con người sáng tạo, họ sẽ tự thấy,
không cần tới "áp lực chính trị", và càng không cần tới "cơ quan
an ninh văn hóa", không có bất kỳ cơ quan truyền thông nào lại muốn đăng
tải "thơ rác, thơ dơ" của Mở miệng. Công bố loại sản phẩm đó là tự
đặt vào thế đối lập với quan niệm, thị hiếu lành mạnh của công chúng. Do đó,
trong tiểu mục Những khoảng trống (Luận văn, tr.14) việc đặt ra câu hỏi:
"nghiên cứu, phê bình liệu có thể tiếp cận như một sự chia sẻ và tương tác
mạnh mẽ với các hiện tượng đương đại nếu bản thân nó mang đầy định kiến?"
là cố tình đổ lỗi cho nghiên cứu và phê bình. Và dù không có định kiến, với sản
phẩm của Mở miệng, người đọc - bằng các tiêu chí văn hóa của họ, vẫn có thể phê
phán và tự thanh lọc khỏi bộ nhớ. Xét đến cùng, vay mượn quan niệm về
"dòng chính", "dòng ngầm" trong cấu trúc văn hóa chỉ là
phương cách tạo dựng ra một "giả lý thuyết" nhằm biện hộ cho mục đích
mà Ðỗ Thị Thoan và người hướng dẫn muốn hướng tới. Cho nên, cũng chỉ là ngụy
biện khi tác giả Luận văn viết: "Cách ứng xử với hiện tượng văn học dưới
các góc nhìn và cách tiếp cận thuần văn học, chỉ tập trung vào văn bản sẽ trở
nên thiếu chính xác khi văn chương hiện nay đang nỗ lực tham dự vào một bối
cảnh rộng hơn, khi nó là biểu hiện của một cấu trúc xã hội - văn hóa đang biến
động"!
Huy động tổng lực các
đánh giá và ý kiến cổ vũ Mở miệng đã công bố trên internet, Ðỗ Thị Thoan cố
gắng "trường quy hóa" trong bản Luận văn để được mặc nhiên thừa nhận,
từ đó sẽ biến "ngoại vi" thành "trung tâm", biến "dòng
ngầm" thành "dòng chính", biến "phi chính thống" thành
"chính thống", biến "phản văn hóa" thành "văn
hóa"? Ðặt ra câu hỏi này là có lý do, bởi Luận văn này dành hẳn trang 16
chỉ để cật vấn tại sao cái dòng "văn chương" mà chị gọi là "bên
lề" ấy lại không được "giải mã đúng lúc, không được thừa nhận, chứ
chưa nói đến sự thấu hiểu". Vậy Luận văn đã "giải mã, thấu hiểu"
như thế nào? Trong khuôn khổ một bài báo, không thể đưa ra đầy đủ dẫn dụ, chỉ
có thể kết luận Ðỗ Thị Thoan cố gắng chứng minh Mở miệng ra đời là một tất yếu,
là "một nhóm văn hóa chứ không phải một phong trào là điều kiện địa - văn
hóa". Bằng việc phân tích một cách rất tư biện về quan hệ trung tâm -
ngoại vi, chính thống - phi chính thống, phụ lưu - chính lưu, đặc biệt là tương
quan giữa văn chương với quyền lực chính trị, tác giả đã không chỉ hướng tới
"giải trung tâm", "giải thiêng" để biện hộ cho Mở miệng, mà
còn đưa ra một số giả vấn đề, mà việc phân biệt bắc - nam trong văn chương là
một thí dụ. Và phải nói rằng với quan niệm: "Quan hệ lề/trung tâm trong
lĩnh vực văn chương ở Việt Nam, cũng thường được cụ thể hóa ở một cặp đôi khác
là cặp Hà Nội - Sài Gòn (không phải thành phố Hồ Chí Minh theo tên trên bản đồ
địa lý, một cái tên mới, một cái tên muốn xóa sạch cả lịch sử và quá khứ của
những yêu mến lẫn đau thương vào danh từ của người chiến thắng của một giai
đoạn lịch sử)..." (Luận văn, tr.38), chị như người đứng ngoài đất nước này
và lặp lại y xì giọng điệu của những người chống cộng.
Tại Hội nghị Lý luận phê
bình văn học lần thứ III do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức mới đây, sau khi có
nhà nghiên cứu lên tiếng phê phán Luận văn của Ðỗ Thị Thoan, một đại biểu đến
từ Ðại học Sư phạm Hà Nội biện hộ đó là nghiên cứu cá nhân, là quyền của nhà
nghiên cứu. Ðiều này không sai, nhưng thử hỏi: Nghiên cứu để biến "thơ
rác, thơ dơ" thành giá trị văn hóa thì liệu có phù hợp với phẩm cách nhân
văn của nhà nghiên cứu hay không? Tại sao các nhà nghiên cứu ở trường này không
tự mình tiến hành mà lại đặt nó "lên vai" học trò, lẽ nào đó là thủ
pháp "mượn tay học trò" để không phải chịu trách nhiệm? Việc đào tạo,
đăng ký và thông qua đề cương, phân công người hướng dẫn, bảo vệ, và đánh giá
luận văn cao học là một quy trình nghiêm ngặt. Học viên không thể tự đi đến
đích cuối cùng nếu không nhận được sự nhất trí của cả quy trình. Vì thế, vấn đề
đặt ra là: Với những nội dung như vậy tại sao Luận văn của học viên Ðỗ Thị
Thoan lại có thể được nhất trí 10/10, phải chăng các cá nhân liên quan tới Luận
văn đều không e dè với các ngôn từ tục tĩu mà Ðỗ Thị Thoan dẫn lại trong Luận
văn? Chẳng lẽ họ không thấy Luận văn rất thiếu tính khoa học, mà gần như là tập
hợp của một số bài báo? Chẳng lẽ họ cũng coi Mở miệng là một "huyền
thoại" khi đồng tình với điều tác giả Luận văn viết: "Cùng với sự nổi
tiếng của Mở miệng, Nxb Giấy vụn đã trở thành một huyền thoại: Nxb ngoài luồng,
huyền thoại về La Hán Phòng nơi hội tụ các anh em giang hồ, huyền thoại về sự
thăm dò của an ninh, huyền thoại của những kẻ sẵn sàng "đái vào
Chúa"... Những huyền thoại xây dựng hình ảnh Mở miệng: lạ, phá phách, phá
hỏng tiếng Việt, phản kháng về chính trị, chống đối chính quyền. Họ là kết hợp
của cách tân và phản kháng" (Luận văn, tr.57)!? Tóm lại, dẫu thế nào cũng
không thể nhân danh khoa học để biện hộ cho việc làm ra các sản phẩm "phản
văn hóa". Và đáng quan ngại là căn cứ vào chương trình giảng dạy bộ môn
văn học Việt Nam ở Trường đại học Sư phạm Hà Nội, liệu ai có thể bảo đảm rằng,
"kết quả nghiên cứu" của Ths Ðỗ Thị Thoan và PGS, TS Nguyễn Thị Bình
về Mở miệng đã không được truyền bá trên giảng đường, chí ít là cho sinh viên
ngành văn học?
Nguồn: Báo Nhân Dân
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét