Luận văn thạc sĩ “Vị trí của kẻ bên lề…”
Đọc
luận văn thạc sĩ “Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc
nhìn văn hóa” (từ đây gọi tắt là VTKBL) của tác giả Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên)
do PGS.TS Nguyễn Thị Bình, Trường Đại học (ĐH) Sư phạm Hà Nội hướng dẫn, tôi
toát mồ hôi, nổi da gà. Chẳng lẽ, “nổi loạn là điều kiện sáng tạo” văn chương?
VTKBL thuộc chuyên ngành Văn học Việt Nam, mang mã số 602234, được bảo vệ tại
Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội vào năm 2010 với điểm 10 tuyệt đối của
Hội đồng Chấm luận văn. Đây là một luận văn bàn về văn chương ngoài luồng (mà
họ tự gọi là thơ nghĩa địa, thơ dơ, thơ rác…) của nhóm tác giả có tên gọi là
“Mở Miệng”. Xin không bàn về những vấn đề học thuật với những triết
thuyết, những luận điểm luận cứ, những viện dẫn Đông Tây kim cổ. Không bàn luôn
cả những lý giải, hóa giải rất là hầm bà lằng, mà chỉ xin điểm qua những nội
dung ô trọc, phi văn hóa và những kiến giải phi nhân tính và rất nổi loạn của
luận văn này.
Kỳ I: Nổi loạn là điều kiện để sáng tạo?
MINH TÂM
Đọc luận văn thạc sĩ “Vị
trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” (từ đây
gọi tắt là VTKBL) của tác giả Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) do PGS.TS Nguyễn Thị
Bình, Trường Đại học (ĐH) Sư phạm Hà Nội hướng dẫn, tôi toát mồ hôi, nổi da gà.
Chẳng lẽ, “nổi loạn là điều kiện sáng tạo” văn chương? VTKBL thuộc chuyên ngành
Văn học Việt Nam, mang mã số 602234, được bảo vệ tại Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư
phạm Hà Nội vào năm 2010 với điểm 10 tuyệt đối của Hội đồng Chấm luận văn. Đây
là một luận văn bàn về văn chương ngoài luồng (mà họ tự gọi là thơ nghĩa địa,
thơ dơ, thơ rác…) của nhóm tác giả có tên gọi là “Mở Miệng”. Xin không bàn
về những vấn đề học thuật với những triết thuyết, những luận điểm luận cứ,
những viện dẫn Đông Tây kim cổ. Không bàn luôn cả những lý giải, hóa giải rất
là hầm bà lằng, mà chỉ xin điểm qua những nội dung ô trọc, phi văn hóa và những
kiến giải phi nhân tính và rất nổi loạn của luận văn này.
Trước hết, người thực
hiện và người hướng dẫn luận văn này là 2 cô giáo. Thế mà họ nhắc tới và lặp
lại rất nhiều lần các bộ phận sinh dục nữ, sinh dục nam và các động thái sinh
dục (thứ mà bất cứ người tử tế nào thoạt nghe tới cũng đỏ mặt tía tai vì xấu hổ
và tự trọng) cứ “tự nhiên như ruồi”. Tự độc thoại và tự hài lòng với độc thoại
của chính bản thân mình.
Bài thơ “Vô địch” chỉ có
14 câu mà có tới 4 từ chỉ cơ quan sinh dục nam và nữ và 2 từ chỉ quan hệ tình
dục giữa nam và nữ. Bài “Tình tính tinh” cũng có những từ bậy không kém mà
chúng tôi không thể trích dẫn ra đây. Trước khi trích dẫn 2
bài thơ nêu trên, tác giả luận văn đã giới thiệu: Bùi Chát có hẳn một tập thơ
theo “ý niệm” chửi bới lộn cái… (chữ tục, chúng tôi xin lược đi - MT)… bỏ đi và
những bài thơ chửi rửa (bới lộn). Nếu vượt qua được sự thách thức từ nhan đề
tập thơ, người đọc có thể tiếp xúc với một kho từ vựng phong phú, sống động của
đời sống của những kẻ dưới đáy, của cái thường nhật của cái tục đã bị áp chế
bởi văn minh. Bùi Chát cùng ý hướng với với Nguyễn Quốc Chánh khi khai thác
cường độ mãnh liệt của ngôn ngữ bình dân, tiếu lâm, phát huy “… tính” (chữ tục,
chúng tôi xin lược đi - MT).
Còn đây, xin bạn đọc gắng
bình tâm, kiên nhẫn đọc trọn vẹn một bài thơ có tên là Đường Kách Mệnh để thêm
một lần nữa thấy rõ sự phản loạn của thứ văn chương… nghĩa địa này: “Con đường
nối những con đường/ Dẫn tới các nhà thương/ Ngồi một mình/ Em nói như mưa/ Thì
tại sao chúng ta không lên giường/ Để đào những cái mương/ Giữ mãi lời thề xưa”.
Sau những trích dẫn ấy,
tác giả luận văn đã bình luận thế này: “Quan niệm về ngôn ngữ của họ, khi dùng
một cách công khai và vô tội (vạ) các từ chỉ bộ phận sinh dục, hành vi tính
giao như… (chữ tục, chúng tôi xin lược đi - MT) là nỗ lực, theo họ, trả lại sự
bình đẳng cho từ ngữ. Lập luận này, ít nhất, đã có một sức hấp dẫn mạnh mẽ ở
tính chất lật đổ của nó.
Và, đó chính là cơ sở để tác giả luận văn kết
luận: “Mở Miệng, ở các thực hành thơ, đã là biểu hiện của sự giải phóng, trong
nỗ lực giải phóng của nghệ thuật Việt Nam đương đại. Trong sự so
sánh với truyền thống thơ của Việt Nam, Mở Miệng là một sự chối bỏ quyết liệt,
dù tôi không muốn nhìn họ như một sự đại diện cho thế hệ, nhưng họ đã lên tiếng
đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên chế…”.
Họ to mồm… vu khống như
thế để ở những dòng cuối cùng của luận văn này, họ lớn tiếng kêu gọi rất xách
mé, mánh qué, và thể hiện rất đầy đủ tà tâm của chính những cái loa rỗng tuếch
rằng: “Ở đây, tôi muốn, một lần nữa, gợi đến Thanh Tâm Tuyền: Kẻ nô lệ đòi
quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo”.
Ô hay! Các “’ngài nô lệ” trong nhóm Mở Miệng là
“nô lệ của đấng tự do” nào? Ở đâu? Lúc nào? Bị “nô lệ” ra làm sao? Và rồi, “thứ
nô lệ” đòi gia nhập đời sống ấy sẽ sáng tạo ra thứ văn chương gì khi được “tự
do nổi loạn”?
Rất mong thày và trò của
luận văn VTKBL giải trình, giải thích cho bàn dân thiên hạ được sáng mắt, sáng
dạ ra.
Kỳ II: Mượn văn chương làm chính trị
MINH TÂM
Để làm sáng tỏ nội dung
và bản chất những vấn đề mà nội dung luận văn “Vị trí của kẻ bên lề…” đề cập,
chúng tôi đã đề nghị được làm việc với Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội nhưng không được. Vì vậy, phóng viên đành phải có cuộc trao đổi với nhà phê
bình Văn học Chu Giang, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Văn học.
+ Thưa ông, cô giáo Đỗ
Thị Thoan (Nhã Thuyên) trích dẫn việc nói ngọng (cuần nót - quần lót, đâm ja -
đâm ra, ni hôn - ly hôn…) vừa như trẻ con nói ngọng, vừa như là thứ ngôn ngữ
lai căng trong thơ ngoài luồng của nhóm tác giả Mở Miệng và coi đó là yếu tố
tiếu lâm, cách tân, cách mạng nghệ thuật Việt Nam đương đại. Theo ông, nên hiểu
luận điểm này thế nào?
- Những từ, chữ ngọng
nghịu mà đưa vào thơ và coi đó là cách tân, cách mạng thì là chưa hiểu gì về
cách tân cách mạng nghệ thuật. Và như thế là rất thiếu văn hóa. Đó chính là thứ
“lại giống” trở về thời con nít thuở còn chưa biết… chùi!
Từ dùng trong đời sống khác với từ ngữ trong văn
học nghệ thuật. Văn chương phải tinh lọc. Làm sao nói thật giản dị mà người ta
hiểu thật sâu sắc. Đó mới là cái khó của văn chương.
Còn nói ngọng nghịu tục
tĩu như ngôn ngữ của nhóm Mở Miệng là rất kém văn hóa. Người ta giễu cợt vào
một lúc nào đó trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, để mà vui, mà cười, mà vượt
qua những khó khăn thử thách nhất thời nào đó. Ví như hò kéo gỗ, hò chèo đò ở
Thanh Hóa là rất tục. Người ta hò tục là để tập trung sức lực, là để nỗ lực
vượt qua khó khăn thử thách. Nhưng, một khi đã ngọng nghịu tục tĩu trong văn
chương thì nó sẽ trở thành chuyện… chả còn gì để bàn.
+ Thưa ông, tác giả luận
văn còn cho rằng, nhóm tác giả ngoài luồng, ngoài lề đã mang lại sự công bằng
ngôn ngữ cho các từ chỉ bộ phận sinh dục nam, nữ và các hoạt động tính
dục của nó (xuất hiện rất dày đặc trong thơ và cả trong luận văn bàn về thơ) và
cho đó là… sáng tạo. Ông đánh giá thế nào về luận cứ, quan điểm gọi là “sáng
tạo” này?
- Qua lời phân tích của
tác giả luận văn về nhóm Mở Miệng “mang lại sự công bằng ngôn ngữ cho các từ
chỉ bộ phận sinh dục nam, nữ và các hoạt động tính dục của nó và coi đó là sáng
tạo” theo tôi cũng chứng tỏ là người này chưa hiểu gì về văn hóa cả!
Về cái quan điểm tục tĩu
này, tôi không muốn bình luận gì cả mà chỉ kể câu chuyện ngắn: Có một bộ tộc ở
Châu Phi, lạc hậu đến mức không biết đến quần áo và không che đậy gì cả. Riêng
đàn ông ra đường phải có một cái bao bằng ống cây để đựng… của quý. Khi đi hỏi
vợ, người đàn ông phải mang theo mấy cái bao như thế để làm… của hồi môn. Nếu
không thế thì sẽ quần hôn loạn dâm ngay. Cuộc đời loạn luân thì văn chương bình
yên làm sao được.
Ở nhóm ngoài lề, ngoài
luồng và cô giáo Thoan thì ngược lại. Cuộc đời đang yên bình văn minh thì họ đã
“cầm đèn chạy trước loài cầm thú”, âm mưu kích dục “loạn dâm” trong văn chương
nghĩa địa rồi! Thế là đã quá rõ văn hóa của họ là thứ văn hóa nào trong mặt
bằng văn hóa văn minh của xã hội ta hiện nay.
+ Ngoài luận văn này, tác
giả còn có một vài tiểu luận kêu gọi mang tính hô hào, lật đổ, ông có bình luận
gì không?
- Tôi nghi ngờ không biết
những người này có phải đang toan tính dùng văn chương làm chính trị? Nhưng,
làm chính trị đâu có dễ như làm mấy câu thơ rác của họ. Họ làm gì chả ai cấm
được họ, kể cả pháp luật một khi họ đã liều, đã nổi điên, nổi đóa (thì họ đòi
tự do kia mà). Song, đương nhiên họ sẽ phải lãnh chịu sự tương tác từ đối tượng
mà họ tác động vào.
+ Xin ông bình luận câu
tuyên ngôn sau chót của luận văn “Vị trí của kẻ bên lề…”: Như thế nổi loạn là
điều kiện sáng
tạo?
- Tôi không dám bình luận
gì, chỉ xin phép được hỏi lại họ thôi. Chứ “thần đồng” Trần Đăng Khoa có nổi
loạn không mà đã sáng tạo ra cả một “Góc sân và khoảng trời” làm mê mẩn bao
nhiêu thế hệ bạn đọc trẻ? Cụ Nguyễn Khuyến có phải nổi loạn với ai đâu (trong
bối cảnh một cổ hai tròng khốn đốn ấy) và cũng có cần đến một từ một chữ tục
nào đâu mà vẫn sáng tạo ra cả chùm thơ 3 bài vịnh Thu bất hủ thế! Nào, có cần
nổi loạn chi đâu mà phải tuyên bố “nổi loạn là điều kiện sáng tạo”!
+ Xin cảm ơn ông!
Nguồn:
báo Thanh Tra
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét