Mở
Miệng là nhóm gì và gồm những ai? Chính bản luận văn nêu trên cho biết: Tháng
6-2002, tập Mở Miệng gồm 4 tác giả: Khúc Duy, Bùi Chát, Lý Đợi và Nguyễn Quán
được xuất bản-Nhóm Mở Miệng chính thức hình thành. Tập thơ in photo số lượng
ít, chuyền tay bạn bè trong Sài Gòn và một số tập khác sau đợt kiểm tra đã bị
thu hồi và tiêu hủy. Vì sao các “tác phẩm” in photo của nhóm này bị thu hồi
tiêu hủy? Bởi cái mà họ gọi là thơ, như chính họ thừa nhận, là thơ dơ, thơ rác
rưởi, thơ nghĩa địa… ngôn ngữ thơ thô tục bẩn thỉu, nghệ thuật thơ bế tắc lập
dị. Đặc biệt, họ đã dùng thủ pháp giễu nhại để vu cáo, xuyên tạc, bôi nhọ… nhằm
hạ bệ các thần tượng, giải thiêng lãnh tụ và các danh nhân, bôi bẩn các giá trị
lịch sử-văn hóa của dân tộc, xúc phạm tình cảm của hàng triệu đồng bào ta đối
với Bác Hồ kính yêu.
MỘT “GÓC NHÌN” PHẢN VĂN HÓA VÀ PHI CHÍNH TRỊ
TUYÊN HÓA
Gần
đây, dư luận bàn tán khá nhiều về những quan điểm gây “sốc” của một luận văn
thạc sĩ văn học, tán dương sự nổi loạn của một nhóm thơ “cách tân” nhen nhóm
cách nay hơn chục năm và hiện nay đang leo lét. Tại Hội nghị Lý luận-Phê bình
văn học lần thứ III do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đầu tháng 6-2013
vừa qua ở Tam Đảo, đã có nhiều ý kiến phê phán khá gay gắt đối với bản luận văn
này. Nhà nghiên cứu-phê bình văn học Nguyễn Văn Lưu gọi đây là “một luận văn
kích động sự phản kháng và chống đối”. Giáo sư Phong Lê hai lần lên diễn đàn đề
nghị các cơ quan chức năng phải làm việc nghiêm khắc và xử lý thích đáng đối
với tác giả bản luận văn cũng như hội đồng chấm luận văn. Có người kêu lên:
“Liệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (nơi tổ chức thực hiện bản luận văn) có
giải thiêng lịch sử được không?”. Có người nói rằng: “Đây là một luận văn trá
hình mang nội dung chính trị phản động…”.
Đó
chính là bản luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Thị Thoan, mang tên: Vị trí của kẻ
bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa, thuộc chuyên ngành
Văn học Việt Nam, mã số 602234. Bản luận văn được Hội đồng chấm luận văn của
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chấm điểm và hiện được lưu trữ tại thư viện
trường này.
Tác
giả bản luận văn xác nhận: Đối tượng của luận văn là Thực hành thơ của Mở
Miệng, với vấn đề then chốt là tra vấn về vị thế bên lề như một điểm tham chiếu
để bình luận về những cách tân và tính cách mạng trong tư tưởng và nghệ thuật
của họ… Và: Các tác phẩm được khảo sát là những tập thơ cá nhân và nhóm của các
thành viên Mở Miệng, cùng những người đồng chí hướng (tr.16).
Chữ
“bên lề” của Đỗ Thị Thoan xuất phát từ lý luận về Giải trung tâm của Derrida,
theo đó họ quan niệm rằng trong một văn bản có quan hệ giữa phần chữ viết và
phần lề xung quanh, mà phần chữ viết là trung tâm còn phần lề là ngoại vi. Bên
lề là để ghi chú, giải thích, hiệu đính… và đó là cái khác với cái trung tâm.
Từ đó, sinh ra lý luận “Mỹ học của Cái Khác”. Tác giả Đỗ Thị Thoan là một trong
những người coi hiện tượng nhóm Mở Miệng là Cái Khác của dòng văn học chính
thống, được mệnh danh là thơ phản kháng, thơ Bên Lề và tập trung nghiên cứu Cái
Khác, cái Bên Lề của nhóm này.
Mở
Miệng là nhóm gì và gồm những ai? Chính bản luận văn nêu trên cho biết: Tháng
6-2002, tập Mở Miệng gồm 4 tác giả: Khúc Duy, Bùi Chát, Lý Đợi và Nguyễn Quán
được xuất bản-Nhóm Mở Miệng chính thức hình thành. Tập thơ in photo số lượng
ít, chuyền tay bạn bè trong Sài Gòn và một số tập khác sau đợt kiểm tra đã bị
thu hồi và tiêu hủy. Vì sao các “tác phẩm” in photo của nhóm này bị thu hồi
tiêu hủy? Bởi cái mà họ gọi là thơ, như chính họ thừa nhận, là thơ dơ, thơ rác
rưởi, thơ nghĩa địa… ngôn ngữ thơ thô tục bẩn thỉu, nghệ thuật thơ bế tắc lập
dị. Đặc biệt, họ đã dùng thủ pháp giễu nhại để vu cáo, xuyên tạc, bôi nhọ… nhằm
hạ bệ các thần tượng, giải thiêng lãnh tụ và các danh nhân, bôi bẩn các giá trị
lịch sử-văn hóa của dân tộc, xúc phạm tình cảm của hàng triệu đồng bào ta đối
với Bác Hồ kính yêu. Chính vì vậy mà nó đã không tồn tại được lâu trong đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta, như chính tác giả bản luận văn đã viết:
Mở Miệng từ chỗ gây náo loạn, đã trở nên im ắng dần trong những năm gần đây. Lẽ
ra, Mở Miệng có thể trở thành một cú hích để xới lật nhiều vấn đề về thơ đương
đại cả lý thuyết lẫn thực hành và trên thực tế đã châm ngòi cho một số cuộc
tranh luận quan trọng như về thanh-tục trong thơ, về thủ pháp giễu nhại… Nhưng
các cuộc tranh luận đều diễn ra trên mạng và không chứng tỏ nhiều ảnh hưởng với
sự chuyển động của thơ Việt trong nước (tr.9).
Một
sự “nổi loạn, cách tân” đã thất bại, đã bị cuộc sống chối bỏ và trên thực tế đã
gần như cáo chung, thế mà tác giả Đỗ Thị Thoan, một cán bộ giảng dạy đại học sư
phạm, lại bới lên để khảo sát và hết lời tán dương, cổ xúy: Việc Nguyễn Huy
Thiệp nhét cứt vào miệng kẻ sĩ Bắc Hà để hạ bệ thần tượng hoàn toàn khác việc
Mở Miệng đưa chuyện cứt đái ra nói công khai như những kẻ mua vui nhàn rỗi cho
quần chúng bằng thơ tiếu lâm… Không chỉ nói chuyện “cứt đái”, thơ của nhóm Mở
Miệng còn hào hứng miêu tả những bộ phận sinh dục của đàn ông và đàn bà, những
hành vi làm tình, hành lạc… bằng những từ ngữ thô tục, trần trụi nhất mà một
người bình thường không thể nhắc lại được, dù là để phê phán. Những từ tục tĩu
bẩn thỉu ấy được sắp đặt lổn nhổn bên nhau, được phát ra một cách lảm nhảm vô
lối: Tôi ném nước bọt lên tường/ Tôi yêu những người đàn bà đang là chuột dưới
cống/ Tôi thấy em mặc quần lót mười nghìn ba cái mua ở vỉa hè mỗi khi chủ nhật…
Tôi hành hạ tôi ba bữa/ Tôi kêu đòi chữ nghĩa/ Tôi tổ chức chiến tranh/ Tôi nam
mô vị chúa trời/ Tôi đánh răng vào buổi trưa/ Tôi đâm ra/ Tôi cải tạo âm hộ… Ấy
thế mà Đỗ Thị Thoan ca ngợi: Những thi phẩm này (đúng là phải gọi bằng từ “thi
phẩm”) đều sạch, đẹp và giàu năng lượng cảm xúc…(tr.64). Và: Thái độ dám hủy bỏ thi tính của mình để đổi lấy một
hành vi mới, tạo ra một ý niệm mới về việc làm thơ là một thách thức với ý thức
mỹ học cũ (tr.84) v.v..
Từ
việc đồng lõa, bênh vực và “tôn vinh” thứ thơ bệnh hoạn, tắc tị như trên, tác
giả đã bộc lộ thái độ chính trị của mình thông qua việc ca ngợi những nhà
văn “phản kháng” như Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương… để rồi xuyên tạc và kích
động: Nhưng giai đoạn khủng hoảng, phẩm tính phản kháng vốn tiềm tàng trong
lòng các xã hội chuyên chế sẽ trỗi dậy. Đây là giai đoạn thích hợp cho nổi
loạn, cho phá phách, cho thái độ vô trật tự, vô chính phủ… Và: Nhân văn Giai
phẩm trước hết là một phong trào dân chủ… Mở Miệng cũng bắt đầu bằng một phản
ứng CHỐNG một thứ quyền lực “vô hình” trong sự thiết lập sân chơi thơ trẻ của
các sĩ phu Bắc Hà và họ tạo thành một nhóm chơi (trò) chơi thơ với sự thống
nhất về bản sắc, ý hướng, dù thực hành cá nhân mỗi người lại khác nhau. Phản
ứng của những người tin tưởng vào Cách mạng của quá khứ (tức nhóm Nhân văn Giai
phẩm) cũng hoàn toàn khác với phản ứng có tính chất phá bỏ, giễu nhại, thiếu
nghiêm trang của Mở Miệng (tr. 32).
Sau
khi thừa nhận “nhu cầu cách mạng” để thực hiện “nhu cầu cách tân” về nghệ thuật
của nhóm Mở Miệng, thừa nhận họ văng tục và nói về cứt đái nhưng muốn lật đổ
hơn là xây dựng (tr.31), tác giả Đỗ Thị Thoan không hề giấu giếm đối tượng
“cách mạng” và “lật đổ” không chỉ là những khái niệm của văn chương học thuật
mà là thể chế chính trị. Bởi tác giả cho rằng: Cơn hưng phấn của thời Đổi Mới
nhanh chóng biến thành nỗi hụt hẫng vì sự thắt chặt lại của chính sách, với Đại
hội Đảng VII năm 1991 (tr. 26). Tác giả còn tố cáo Đảng và Nhà nước ta bóp
nghẹt tự do sáng tạo: Và bởi sự thống nhất trong một xã hội không chấp nhận đa
nguyên về ý thức hệ và tư tưởng, Cái Khác là cái cần bị loại trừ, bị chèn ép…
(tr. 37). Đến đây, tác giả đã công khai biểu thị thái độ đồng tình với tư tưởng
chống Cộng của các phần tử chống đối Đảng và chế độ XHCN, mà Mở Miệng chỉ là
một nhóm nhỏ, trong đó: Tập Bài thơ một vần của Bùi Chát, mặc dù là thơ tự do,
nhưng tính chất một vần nằm ở từ khóa Cộng Sản. Bùi Chát lật đổ các slogan xã
hội, các ảo tưởng được đóng đinh trong ngôn ngữ ý thức hệ... (tr. 71). Và tác giả Đỗ Thị Thoan
kết luận: Mở Miệng, ở các thực hành thơ, đã là biểu hiện của sự giải phóng,
trong nỗ lực giải phóng của nghệ thuật Việt Nam đương đại. Trong sự so
sánh với truyền thống thơ của Việt Nam, Mở Miệng là một sự chối bỏ quyết liệt,
dù tôi không muốn nhìn nhận họ như một sự đại diện cho thế hệ, nhưng họ đã lên
tiếng đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên chế, khi niềm tin vào
chế độ và sự tự do đang có đã tan rã… (tr.
104).
Rõ
ràng “đây là một bản luận văn trá hình mang nội dung chính trị phản động”. Nó
trá hình ở chỗ mượn cụm từ “góc nhìn văn hóa” để khảo sát một hiện tượng văn
học, nhưng thực chất để tung hô, cổ xúy cho một “thực hành thơ bên lề” có tư
tưởng chống đối cái trung tâm, cái chính thống, chống lại định hướng, chống lại
thiên chức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân của văn học và nhà văn. Tán
thưởng quan điểm “nổi loạn là điều kiện của sáng tạo”, xuýt xoa tấm tắc khen
“thơ rác, thơ dơ”, thơ tục tằn bẩn thỉu… thì “góc nhìn văn hóa” ấy là văn hóa
gì? Nó phản động ở chỗ chuyển từ ý thức phản biện khoa học sang ý thức phê phán
để chống đối, nổi loạn, lật đổ. Trong khi toàn Đảng và toàn dân ta đang ra sức
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì nó tìm cách giải thiêng
hình tượng Bác Hồ, mang những bài viết, lời phát biểu và những bài thơ của
Người ra để chế tác và giễu nhại… Đây là biểu hiện hết sức trắng trợn của những
người tự nhận là “cách tân, đổi mới” nhưng thực chất là mượn văn nghệ để làm
ngọn cờ chính trị hòng lật đổ chế độ, thay đổi thể chế.
Và
đặc biệt, sự trá hình, sự phản động chính trị trong trường hợp này là hết sức
nghiêm trọng và nguy hiểm, vì đây không phải là những tài liệu, bài viết phát
tán trôi nổi trên internet để các cư dân mạng có thể tiếp nhận ở những mức độ
khác nhau, mà đây lại là một luận văn thạc sĩ cao học, được làm và bảo vệ trong
một cơ sở giáo dục-đào tạo bậc đại học của Nhà nước, nên nó có tính pháp quy.
Theo đó, nó sẽ được lưu trữ trong thư viện quốc gia, làm tài liệu chính thức
cho các đối tượng nghiên cứu, tham khảo. Tác giả luận văn lại là người giảng
dạy văn học cho sinh viên sư phạm, nghĩa là những tư tưởng của tác giả sẽ được
tiếp nhận và sẽ được truyền lại cho nhiều thế hệ trẻ nữa.
Như
vậy, người viết bản luận văn cổ xúy cho thứ văn chương "lật đổ" này
có quyền và tư cách được đứng trên bục giảng đại học nữa hay không? Cái gọi là
bản luận văn này có xứng đáng được đối xử như một công trình khoa học hay
không? Và những người tham gia hướng dẫn, chấm điểm, cấp bằng… cho tác giả và
bản luận văn này liệu có vô can trước những quan điểm sai trái, phản động, nguy
hiểm như đã trình bày trên đây?
Được biết, sau khi bị
dư luận lên tiếng và được cơ quan chức năng chấn chỉnh, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội và Khoa Văn của nhà trường đã họp “rút kinh nghiệm”. Tuy nhiên, trên
thực tế chưa ai bị xử lý bất kỳ hình thức kỷ luật gì. Thậm chí có người còn
phát biểu trên một số diễn đàn chính thống rằng phê phán bản luận văn như vậy
là kiểu “chụp mũ, quy kết” đã lỗi thời. Đặc biệt, thạc sĩ Đỗ Thị Thoan vẫn tiếp
tục lên lớp cho sinh viên và dưới bút danh Nhã Thuyên, cô vừa phát tán một tập
tiểu luận mang tên “Những tiếng nói ngầm” trên một số trang mạng ở nước ngoài,
trong đó có những trang mạng chống Cộng nổi tiếng nhiều năm nay. Trong tập tiểu
luận này, Nhã Thuyên công khai tán dương, ủng hộ dòng thơ “ngầm” chủ trương
chống đối, lật đổ chế độ cộng sản; xuyên tạc lịch sử dân tộc; chống lại “sự
thống trị dai dẳng của tư tưởng Hồ Chí Minh”…
Trước
những biến động phức tạp của đời sống chính trị-xã hội trong thời đại bùng nổ
thông tin và toàn cầu hóa hiện nay, không ít người đã tỏ ra “nhạy bén” một cách
xu thời, cơ hội; hoặc là hữu khuynh, mất phương hướng. Tình trạng dao động, mất
phương hướng, bị cuốn theo những ảnh hưởng xấu độc là rất đáng lo ngại. Đáng lo
ngại hơn là tình trạng ấy lại diễn ra ở một số người trong một số cơ quan văn
hóa-giáo dục có uy tín. Bởi vậy, vấn đề cần giải quyết lúc này không chỉ là
hình thức và biện pháp xử lý đối với một bản luận văn và tác giả của nó. Rất
mong lãnh đạo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhận đúng bản chất của vấn đề,
nghiêm túc và cầu thị lắng nghe dư luận, chấp hành chỉ đạo của cấp trên để giải
quyết vụ việc một cách thỏa đáng, lấy lại uy tín của một “cỗ máy cái trong nền
giáo dục quốc gia” hơn nửa thế kỷ qua!
Nguồn: Báo Quân Đội Nhân Dân
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét