Trương
Hữu Thiêm
Na Cô sa, một lần tôi tới
Tặng đồn Biên phòng 409, Na Cô Sa - Mường Tè - Lai Châu
Rét cắt thịt, Na Cô Sa
là vậy
Sương
mù giăng trắng cả nỗi nhớ nhà
Bộ
quần áo phơi hai ngày còn ẩm
Nửa
tháng liền hàn thử biểu âm ba.
Lời tâm sự người nghe chưa kịp hiểu
Đã đóng băng thành chuỗi ở bên tai
Dầu đông cứng, ngọn đèn không cháy nổi
Điếu thuốc lào ba tỉnh ngả nghiêng say.
Mỗi lá thư thuộc lòng từ dấu chấm
Đọc
xuôi và đọc ngược như nhau
Ảnh người yêu đem dán lên vách liếp
Đồng đội khen như hoa hậu hoàn cầu.
Về phép được đôi ba tuần là cưới
Sau mấy ngày trăng mật lại đi ngay
Bông hoa cưới còn tươi màu hạnh phúc
Đã một người ở tít tận chân mây.
Lá thư viết mấy tháng không gửi được
Gửi được rồi, mấy tháng đợi hồi âm
Con dấu tròn trên phong bì lặng lẽ
Cũng phôi phai theo gió bấc mưa dầm.
Đường lên mốc vạch rừng cắt núi
Dẫu đèo cao, vực thẳm, suối sâu
Cơn sốt rét bất chợt trên sườn đá
Nắm lá rừng quờ vội cứ thế nhai.
Địa bàn rộng con nai còn lạc lối
Lính biên phòng thuộc từng mỏm tai mèo
Tấc đất nào cũng có hình Tổ quốc
Súng trên vai và lửa ở trong tim.
Na Cô Sa một lần tôi tới
Để bây giờ ngồi nhớ chén quan san
Phút giao thừa gửi lòng lên biên giới
Nơi các anh đón Tết giữa non ngàn...
Lời
bình của Nguyễn Đức Lợi
Na Cô Sa… gia tài của lính
Phải nói ngay rằng “thế
giới Biên phòng” là một bức họa muôn vàn kỳ diệu được thiên nhiên “sáng tác”,
rồi ban tặng cho những con người tiêu biểu của một dân tộc tự tôn, Tự do - Độc
lập. Hơn đâu hết, thiên kiệt tác ấy chính là nhân tố tạo ra một hình thái cảm
xúc riêng biệt, độc lập, độc đáo, hết sức thiêng liêng và đặc trưng kiểu… Biên
phòng. Tôi đã đi nhiều, nghe, đọc, ăn, ngủ nhiều với/về con người, vùng
đất miền biên viễn, giả như: thầy thuốc quân hàm xanh; thầy giáo quân hàm xanh;
anh hùng liệt sĩ quân hàm xanh, rồi cả chàng rể quí quân hàm xanh… và ngộ nhận
rằng mình “hiểu biết” Biên phòng như hiểu chính lòng bàn tay mình vậy. Sai bét.
Cái “căn bệnh” ngộ biện ấy kéo dài cho tới khi đọc Na Cô Sa, một ngày tôi tới của Trương Hữu Thiêm, in trên báo Điện
Biên Phủ số xuân Quý Mùi (năm 2003) mới… hết sạch bảo thủ. Đêm, ngồi giữa lòng
thành phố dập dìu xe cộ và chếnh choáng đèn màu mà thấy như đang tắm vào màn
sương giăng trắng cả nỗi nhớ nhà; đang lạnh vào cái lạnh giá đóng thành chuỗi
lời tâm tình rủ rỉ của những người đồng đội, đến nỗi “thỏi” âm thanh lạnh cóng
ấy vừa chạm tới vành tai đã… chẳng kịp hiểu gì! Rồi như đang say lơ say lửng
khói thuốc lào cùng với dăm bảy đồng chí mình, mà mỗi đồng chí đến từ một tỉnh…
Tác
giả như một thiết kế gia mê trận khát khao và ham thèm của người đọc. Rất có
thể không riêng tôi, mà nhiều thế hệ bạn trẻ sau khi đọc Na Cô Sa, một ngày tôi tới sẽ không khỏi ao ước trong đời
được ít nhất một lần, làm người lính Biên phòng để thưởng cái thú vô biên: lá
thư của một người là tài sản của cả đơn vị; bố mẹ của một người là bố mẹ của cả
đơn vị; và, theo nghĩa nào đó, người yêu của một người cũng là người yêu của cả
đơn vị… Được làm lính biên phòng rồi, ai mà chẳng muốn trong hành trang, bên
cạnh khẩu súng, bao diêm, gói gạo rang, bộ quần áo, tấm nilon… là mười lăm ngày
phép vội vàng cưới vợ. Rồi sau đó là sự xuất hiện bắt buộc của những lá thư
viết ra rồi tự đọc, viết xong rồi viết lại, mấy tháng ròng mà không sao gửi
được, bởi cái sự ngăn chia cách trở biên khu. Đến khi gửi nỗi niềm đi rồi, thì lại
đợi hồi âm đến mòn cả vầng trăng trên vọng gác, chờ đến vẹt cả sườn đá đường
biên.
Quả
tình, chưa một lần làm lính biên phòng mà đã thấy lòng thốt lên muôn lời da
diết. Tất cả cứ như là tài sản của mình, kỷ vật của mình. Mình đã từng thế kia,
mình đã từng thế khác. Sự đồng điệu với nỗi “phôi phai theo gió bấc mưa dầm”
của con dấu tròn đóng lên bì thư như một sự đảm bảo chắc chắn là những giọt
nước mắt nhớ thương, những dòng mồ hôi nhọc nhằn làm nhạt nhòa bên trong trang
viết. “Người” đồng đội song hành cùng đôi bàn chân là con đường vạch rừng cắt
núi, là ngút ngát mênh mông trùng tít, đến nỗi con nai còn lạc lối; nhưng người
lính biên phòng thì đã từ lâu, thuộc từng mỏm tai mèo. Đồng hành với sự trẻ
trung sôi nổi, với ý chí sắt đá can trường là những cơn sốt bất ngờ ập đến
ngang sườn dốc. Sự tỉnh táo duy nhất cần có để khả dĩ qua phút lâm chung, là
nắm lá rừng vơ vội bên đường...
Tất
cả như là “đặc sản” của lính biên phòng. Từ cuộc sống tác phong, thiếu thốn
trăm chiều, đến cái hiểm nguy rập rình từ bên kia cột mốc. Nói cách khác, tất
cả những khốc liệt, gian nan và thiêng liêng ấy làm nên hình tượng người chiến
sĩ chỉ đinh ninh một khái niệm tấc đất, Tổ quốc, súng và tim. Bức “kỳ họa” Na
Cô Sa được Trương Hữu Thiêm vẽ bằng chữ, nhưng người đọc nhìn thấy, sờ thấy một
cõi thiêng mãi ven trời xứ sở. Quả không phải mình tôi ngợp trước vẻ đẹp của
bức tranh thơ Na Cô Sa, một
ngày tôi tới mà ngay sau đó,
rất nhiều báo, đài… trong đó có Đài Truyền hình Việt Nam, sử dụng lại bài thơ
nhiều lần như một món quà đặc biệt gửi tặng các chiến sĩ nơi phên giậu xa xôi
của Tổ quốc. Được biết, nhà thơ Nguyễn Khôi - Hội Nhà văn Hà Nội (Liên hiệp các
Hội VHNT Hà Nội) sau khi đọc Na
Cô Sa, một ngày tôi đến đã
gửi cho Trương Hữu Thiêm một bức thư dài, bày tỏ niềm tri âm; nhưng vì lí do tế
nhị, Trương Hữu Thiêm đã giấu biệt cái thư khen đi trong sự khiêm tốn. Nhờ thói
“văn thọc mạch”, cuối cùng tôi cũng được đọc lá thư ấy qua kênh người gửi,
trong thư có đoạn: “Chỉ cần đọc Na
Cô Sa, một ngày tôi tới // Để bây giờ ngồi nhớ chén quan san cũng đủ thấy một bậc thầy về thơ rồi”.
Một cuộc lội ngược ký ức tự nguyện kiểu miền núi. Trèo đèo bơi suối đến sưng vù
cả bàn chân, nhưng chưa khi nào qua con dốc, bỗng dưng quì mọp gối vái lạy lời
vĩnh biệt. Tác giả thân chinh tới đồn Biên phòng 409, Na Cô Sa - Mường Tè - Lai
Châu (nay là đồn 411, Na Cô Sa - Mường Nhé - Điện Biên) rồi đi. Ngày ấy, đường
lên Na Cô Sa còn khó khăn lắm chứ không dễ như bây giờ. Rồi tác giả đi mãi, với
những hành trình văn chương nhọc nhằn khác. Nhưng cái máu nghệ sĩ đã buộc ông
làm trọn cuộc hồi ức một mình, lặng lẽ, ngậm ngùi nhớ “chén quan san” trên đỉnh
biên cương xa lắc, như đang nhớ chính hồn cốt mình.
Na
Cô Sa, một ngày tôi tới không
chỉ đẹp ở cách thể hiện siêu thực, đau đáu, tuần tự và “lắm chuyện” mà còn hay
bởi nghệ thuật lập tứ, gợi lẩy cảm xúc người đọc. Cả nhân vật (người chiến sĩ
biên phòng) và độc giả đều thấy có bóng mình trong đó. Người hiện hữu, người
thứ hữu, tất cả đều mang trong mình nỗi khao khát, ước ao, chia sẻ và, cuối
cùng là niềm tự hào cương thổ vẹn toàn:
Tấc
đất nào cũng có hình Tổ quốc
Súng
trên vai và lửa ở trong tim…
Điện Biên 0 giờ 27.2.2009
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét