15 tháng 3, 2013

MẶC CẢ VỚI THẦN LINH

Nguyễn Đức Lợi

                                    Con ma nhỏ

                                     Mọi người gọi em là “con ma nhỏ”
                                    Vì khi em lên một phải “lìa đời”
                                    Giàng bắt cha chôn em theo mẹ
                                    Ban cho em thành mây gió muôn nơi.
                       
                        Mẹ là nguồn sống cả khi đã mất
                        Dòng sữa khô theo xác thịt rũa tàn
                        Tiếng cha khóc dội vào trong lòng đất
                        Em thở đứt dần giữa cát bụi bazan.
                                   
                                    Chợt từ rừng hiện ra bóng áo xanh
                                    Đứng cầu nguyện bên hàng tượng lính
                                    Anh bảo Giàng hãy phạt vạ mình anh
                                    Rồi đào em lên trước bao cơn cuồng thịnh.
                       
                        Làng đòi giết anh nếu để cho em sống
                        Họ coi anh như là kẻ thâm thù
                        Anh mang em đi chẳng làm ai xúc động
                        Chỉ có Trường Sơn là vẫn cứ hoang vu.
                                   
                                     Và em là người Xê Đăng đầu tiên
                                    Chống lại Giàng về sống trong doanh trại
                                    Sáng trồng cây, học chữ, tuần biên
                                    Tối lớn lên trong tình thương nhân ái.
                       
                   Hai mươi năm sau em trở thành y sĩ
                   Mang hồn ma về chữa bệnh quê hương
                   Những đứa trẻ sinh ra chẳng may mẹ mất
                   Không còn bị chôn, hay vứt ở góc nương…
                                   
                             Giờ cả người Ma Coong, người Jơ Rai cũng biết
                            Chẳng có Giàng nào nỡ hại trẻ sơ sinh
                            Nhờ anh lính, đã làm giáo viên rồi còn kiêm thầy thuốc
                            Mà quê em cứu được vạn sinh linh…


Lời bình của Nguyễn Văn Tuyển

Mặc cả với “thần linh”
         
     Cảm giác đầu tiên khi đọc Con ma nhỏ của Nguyễn Đức Lợi - Bài thơ đoạt giải 3, cuộc vận động sáng tác “Vì hạnh phúc cuộc sống” do báo Gia đình và xã hội tổ chức năm 2009 - tôi cứ thấy ám ảnh mãi, không dứt ra khỏi lòng được. Bởi lần đầu tiên và cũng là duy nhất, tôi có một diện kiến mới, khác ngoài mọi sự hăm doạ, về “ma”. Một cảm giác nữa về nghệ thuật, Con ma nhỏ, lúc đầu giống một cái tuyên truyền, sau lại thấy như một bài phú ân… Và cuối cùng, sau nhiều đêm sống chung với vạn “ma” ngàn “quỉ”, tôi nhận thấy Con ma nhỏ như một bản hùng ca về một “cuộc chiến” trường khổ, giống như một cuộc cách mạng thay máu, cần có năm rộng tháng dài ủng hộ!
     Tôi đồ rằng, Nguyễn Đức Lợi chưa từng được diện kiến “vụ” các dân tộc Xê Đăng, Ma Coong, Jơ Rai…  chôn sống đứa trẻ sinh ra dưới 1 tuổi theo mẹ, nếu chẳng may mẹ chết, để mẹ tiếp tục nuôi (cho bú). Nhưng tôi cũng tin tưởng, tác giả đã và nhất định đang tan gan nát ruột trước tập tục “kinh hoàng” ấy, lại đã từng xảy ra trên đất nước mình, trong cộng đồng mình. Vào một đêm nào đó, vạn vật ngưng thở, không gian ngưng thở, thây xác đen ngòm… anh lên cơn đau đớn cùng “con ma nhỏ”; anh kinh hoàng cùng “con ma nhỏ”; anh thoi thóp cùng “con ma nhỏ” ở dưới ba tấc đất… Nỗi quằn quại ấy, vật vã ấy bật thốt thành Con ma nhỏ có hồn, có cốt như một cơ thể, sống lâu.
     Bằng lối viết giản dị, với cách hiệp vần quen thuộc (gián cách), anh làm cho người đọc giật thót mình: Mọi người gọi em là “con ma nhỏ”/ Vì khi em lên một phải “lìa đời”… Giời ạ! Nguyễn Đức Lợi đích thị đã biến thành một “con ma to”, mới có thể “tâm tình” được với “con ma nhỏ” (theo quan niệm đông phương đó là các ông Mãnh, bà Cô) nên mới biết rõ rành câu trả lời …em lên một phải lìa đời. Một sự rung cảm, nhất định rồi, không thông qua sợi dây linh cảm phàm trần, mà là sợi dây… “quái quỷ cảm”. Cái nhân vật “con ma nhỏ” anh mang nặng, chắc chắn không chỉ 9 tháng 10 ngày mà phải là 10 năm… đẻ đau ấy, chính là hình ảnh nghệ thuật của hàng vạn “con ma nhỏ” khác, hợp cảm, đeo bám, bấu víu, cầu cứu van lơn… đến ám ảnh cả dẫy Trường Sơn và cả dẫy thời gian.
     Tác giả hướng cái “quái quỉ” của mình vào Tây Nguyên, để “sắp đặt” một cuộc “va chạm” giữa thần linh (Giàng) và con người (anh lính Biên phòng). Một sự đối đầu hay, một cuộc mặc cả? Thần linh thì:…bắt cha chôn em theo mẹ; còn anh lính Biên phòng lại:…đào em lên trước bao cơn cuồng thịnh. Cuộc “chiến” ấy, có vẻ không mấy cân sức. Một bên là Giàng và dòng, tộc: Làng đòi giết anh nếu để cho em sống/ Họ coi anh như là kẻ thâm thù… Đứng về phía anh chỉ có hơi thở đứt dần và Trường Sơn hoang vu
     Sức nặng của đấu tranh với tập tục lạc hậu là ở chỗ ấy. Lòng dũng cảm, và muôn nẻo quyết tâm thay đổi một kì cựu, một cố thủ, cố hữu cũng ở chỗ ấy. Một “cuộc chiến” không biết trước sự thành bại. Nếu thành thì ắt rồi: Giờ cả người Ma Coong, người Jơ Rai cũng biết/ Chẳng có Giàng nào nỡ hại trẻ sơ sinh/ Nhờ anh lính, đã làm giáo viên rồi còn kiêm thầy thuốc/ Mà quê em cứu được vạn sinh linh… Nhưng bại? Chắc chắn là một thảm hoạ! Anh lính chỉ còn cách là, hoá kiếp thành một “con ma to” đơn độc và xấu xí! Nguyễn Đức Lợi không cố gắng hư cấu, không cố gắng nghệ thuật hoáCon ma nhỏ, để cho nó “chui” vào lòng bạn đọc, mà anh trung thành với sự thực, tôn trọng diễn tiến cải hoá tâm linh trong cộng tộc Tây Nguyên. Đọc Con ma nhỏ chưa đầy một phút, nhưng theo Con ma nhỏ cả chục năm trường. Để quê em không chôn sống trẻ sơ sinh nữa, đã có bao nhiêu con người phải chôn vùi ước vọng cảm hoá, khát vọng đổi thay và, hy vọng quên bỏ… cái tập tục hãi hùng kia. Nhiều người đã vào cuộc. Nhiều ngành cũng vào cuộc. Nhưng tác giả chọn hình mẫu anh lính Biên phòng - những người đau đáu với các dân tộc lạc hậu vùng biên viễn nhiều nhất, lâu nhất; và luôn phải đóng nhiều vai trong xã hội nhất:… đã làm giáo viên rồi còn kiêm thầy thuốc - để làm thành công hoá, chiến thắng hoá cái sự “tàn bạo ráo hoảnh” ấy, như ngày hôm nay. Có thể, người Xê Đăng, người Ma Coong, người Jơ Rai… chưa hoàn toàn thuần phục, nhưng họ đã tin và đã bình đẳng cơ hội sống của tất cả mọi người.
     Tác giả thấp thoáng trong Con ma nhỏ, mặc dù không nhảy tót vào, chễm chệ chuyện. Chỉ là hình ảnh của sự hàm hiểu và sâu sắc vấn đề. Lúc là “con ma nhỏ”, khi là Giàng uy quyền, được sự thuẫn hậu của làng, của tộc. Vừa làm một lính tượng (tượng nhà mồ) uy nghi, nhưng có vẻ bất lực; thoắt đã thành “vị ân nhân lính” thật 100%, xông đến “phá” Giàng, “phá” làng… bằng hành vi “ăn cướp”: Anh mang em đi chẳng làm ai xúc động. Cái sự xúc động ấy, được chờ đợi, có thể là một sự trừng phạt của Giàng! Nhưng rồi thì: Sáng trồng cây, học chữ, tuần biên/ Tối lớn lên trong tình thương nhân ái./ Hai mươi năm sau em trở thành y sĩ/ Mang hồn ma về chữa bệnh quê hương… Như một sự khẳng định cho tinh thần “lách nạn” để tồn sinh bình đẳng bình an, để có cơ hội quay về minh chứng cho sự phi nghĩa của tập tục ấu trĩ. Cái “con ma nhỏ” ấy, nhờ có sự sống lại của mình mà đã giải thoát được cho hàng vạn sinh linh vốn sẽ bị chôn, bị vứt ở rìa nương… Một sự “vùng lên” đến Giàng cũng phải chùn tay đao phủ. Một sự “vùng lên” khiến người đọc, như vừa nhận được một kiến thức mới, về chính những hành vi của mình…
     Một sợi dây linh cảm lạ xuyên suốt hai thế giới tâm linh, là cảm xúc khi đọc Con ma nhỏ của Nguyễn Đức Lợi. Xin chúc mừng!

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét