15 tháng 3, 2013

KHÓC MẸ BẰNG TIẾNG THƠ LÒNG


Trương Hữu Thiêm

Mẹ

Cả ngày đon đả gọi mời
Bấm tay đếm được mấy lời người thưa
Chợ làng tấp nập sớm trưa
Gánh rau và mẹ như thừa cả hai.
Liêu xiêu chiếc bóng đường dài
áo cơm chất nặng đôi vai tảo tần
May nhờ phúc của tiền nhân
Gió mưa chừa lối bàn chân đi về
Quê mình nghèo khó trăm bề
Bắp ngô đã lép, bông kê lại còi
Cỏ không kịp mọc cho voi
Tháng ba ngày tám lặn ngòi ngoi sông.

Một chiều nắng quái đằng đông
Vàng hương cháy đỏ cánh đồng đầu thôn
Chuông thiêng kêu tiếng nguyện hồn
Đất khôn nhận cuộc càn khôn luân hồi
Chợ làng trống một chỗ ngồi
Chiếc đòn gánh đốt đi rồi vẫn cong…


Lời bình của Nguyễn Đức Lợi


Khóc mẹ bằng tiếng thơ lòng


Cảm nhận đầu tiên khi đọc Mẹ của Trương Hữu Thiêm, in trên báo Văn nghệ trẻ, năm 2003 là sự xúc động đạt đến độ nhân đạo trong tiếng “khóc mẹ”. Một tiếng khóc chôn chặt, không tức tưởi, không hu hu; một cách khóc nhẹ nhàng mà sâu, giản dị mà ngấm, khiến ta, giúp ta hiểu được, cảm được nhiều hơn về tấm lòng người mẹ. Mà lại nhất là người mẹ nghèo. Trương Hữu Thiêm khóc mẹ của ông mà khi ta đọc, ta lại thấy như chính ta đang khóc mẹ ta vậy! Bởi vì ta cũng có một mẹ già: “áo cơm chất nặng đôi vai tảo tần”. Một mẹ già nghèo khó, dãi dầu nắng xối mưa xiêu và, vì cuộc mưu sinh cơ cực ấy mẹ như thể tự nhiên mà chấp nhận, vui vẻ mà bằng lòng số phận như một thứ “luật”, ở đời thì phải chiều đời, vậy đấy. Cái muối mặt chiều đời một cách vồn vã ấy, mưu cầu ấy được Trương Hữu Thiêm khái quát khắc họa, nhưng khá đầy đủ chỉ trong vỏn vẹn câu lục: “Cả ngày đon đả gọi mời”. Nhưng rồi thì cái nỗ lực ấy, gắng gượng ấy, trong cái chợ làng vốn hỗn độn, bùng nhùng mà thói đời, cứ hễ dư giả hơn nhau là có quyền kén cá chọn canh, chê hành chê tỏi. Cái tư tưởng đồng tiền đi liền khúc ruột cho thấy khái niệm muôn thuở về thuyết tương xứng giữa thứ bỏ ra và khoản thu về, đã lãng quên, thậm chí đè bẹp sự bươn bả mong manh, hơn nữa là những “liêu xiêu” gắng gỏi cuối cùng. Đến nỗi, thân phận mẹ trôi nổi chẳng kém gì mớ rau con tép, vô duyên và thừa thãi trước những lạnh lùng thường nhật: “Bấm tay đếm được mấy lời người thưa”.
            Có lẽ xuất phát từ con tim và tấm lòng thánh thiện, bằng thuật pháp nhân quả, tác giả đã nhìn nhận một cách tương đối công bằng về người mẹ mẫu mực mà thiện tâm, tần tảo mà phúc phước. Đời thường răn: Cha ăn mặn, con khát nước; thì ở mẹ ngược lại, cái “may” mà mẹ được nhờ là một truyền thống tu nhân tích đức từ tổ, từ tông. Tiền nhân ở ngọt, hậu thế ắt được hưởng bùi. Từ chân dung liêu xiêu khắc khổ, hai bờ vai chất nặng áo cơm, đến đôi chân trần trụi, ngày ngày xuôi ngược trên con đường làng gập ghềnh đá sỏi, dẫm đạp trên cánh đồng làng nứt nẻ, khô cằn: “Bắp ngô đã lép, bông kê lại còi”. Mẹ vẫn khỏe đến mỏi mòn. Dẻo dai đến khô héo: Là nhờ hồng phúc của tiền nhân đấy!
Ở cái miền quê nền sình mái rạ ấy, trời chỉ sinh người (voi), nên: “Cỏ không kịp mọc…”. Xin thành lòng ngả mũ trước sự khéo vẽ nên cảnh sắc bon chen, bơi lặn trong cái biển mưu cầu luân nạn. Chẳng ai xa lạ ai. Ngày ngày người ta vẫn thường bắt gặp một mẹ già xắn gối ngụp sông, ì ụp lội đồng, nhặt rau, xúc tép, để có cái mà gánh kĩu gánh kịt như gánh tháng gánh năm… Và rồi thì, gánh cả cái tuổi tác già nua của mình đi đến tận ngày.  “Một chiều nắng quái đằng đông”, thế là ôi thôi! Nắng thường chỉ quái đằng tây, nay nắng  đằng đông “quái” là báo cho ta một sự lạ, và cái lạ ấy là vàng hương nghi ngút, khăn trắng ngang trời. Người làng giật thót. Chợ làng giật thót. “Cái” bà mẹ vẫn ế ẩm thừa thãi, thậm chí là vướng chỗ… bỗng ra đi, và bỗng trống vắng. Thói đời lại thế, khi còn mà ít lợi ích thì kể như không từng tồn tại; và ngược lại mọi sự nhạt nhẽo mất đi thì bỗng dưng “quý hóa”, cho dù sự “quý hóa” phát âm như là một tiếng đãi môi. Chỉ có “đất khôn” là dang rộng cánh tay đón một niềm phúc phước về thiên cổ. Bao nhiêu khóc lóc, bao nhiêu kể lể đều không thấu đất, đều không động trời; mặc dầu lòng người đã có xáo động, như thể tượng trưng cho một chút xót xa! Vẫn biết, vắng mẹ chợ làng chẳng rã đám nào, nhưng ít ra cũng đã “trống một chỗ ngồi” như một câu nhắc nhớ. Bài thơ được cấu trúc theo mạch dọc của tháng 3 ngày 8. Một chuỗi những đắp đổi, giằng xé đủ cho ta thấy một bà mẹ - biểu tượng vĩ đại của người phụ nữ á Đông, phụ nữ Việt Nam .
Đường “thơ đi” của Mẹ nhằm đến tận cùng nghệ thuật, tận cùng nhân văn, và tận cùng bản ngã lương tri… được gói cả vào câu kết: “Chiếc đòn gánh đốt đi rồi vẫn cong…”. Trời ạ! Một câu kết, một kiểu kết thể hiện cái tài xuyên suốt, tài gói và cái tài “nói lái”, hay thuật “đòn bẩy” (đóng cái nọ để mở cái kia) của Trương Hữu Thiêm. Bấy nhiêu khắc họa dường như chưa đủ, chưa thỏa nên tác giả gửi gắm vào chiếc đòn gánh vô cảm mà như biết nói, vô động mà như rưng rưng. Ai trong chúng ta cũng biết, một chiếc đòn gánh tốt (gánh áo gánh cơm) ở quê phải được làm từ loại tre gai đực. Lúc mới đẽo, muốn chiếc đòn gánh nẩy (như thế mới cảm thấy nhẹ gánh) thì phải đẽo ưỡn, khi chất gánh lên mới chịu oằn xuống; thế nhưng trong Mẹ, chiếc đòn gánh của Trương Hữu Thiêm không phải bàn cãi, đã đi trọn suốt cuộc đời người mẹ, nên vốn dĩ để không đã “còng”, đốt đi lại càng “còng” hơn. Một sự vận chặt số phận vào đời nhau đến lạ và, cách làm thơ nói chung, kết thơ nói riêng của Trương Hữu Thiêm cũng… chẳng giống ai. Với lời lẽ ngôn từ mộc mạc, giản dị, không hề gạn ép, không lạm dụng kỹ thuật, nhưng lại đầy tính nghệ thuật, đủ để bạn đọc cảm nhận được cái hay, cái thơm, cái thảo… trong thơ.
            Mất mẹ! Trương Hữu Thiêm không ầm ĩ khóc lóc, kể lể công ơn hiếu đễ, không nức nở hứa khói hứa nhang. Ông thương mẹ, báo đáp mẹ bằng cách nhìn nhận công bằng về tấm lòng (nghĩa) của mẹ qua thơ, ấy vừa là hiếu, vừa là trọng và vừa là kính!
Điện Biên, 2004

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét