Truyện ngắn
Dãy núi Vách Thưng
Trời vẫn đứng sừng sững như một lời thách thức những bàn chân gang đồng, từ
thời Ải Lậc Cậc (truyền thuyết dân gian “Ải Lậc Cậc - tức Bố Khổng Lồ, hay còn
ám chỉ là Thần Nông - của người Thái cổ) lấy chân san phẳng núi rừng để tìm
viên đá lửa. Vết gạt thành sông Nậm Rốm, còn đất đá té đi một quãng đường đất
bằng độ ngón tay của Ải, vãi xuống thành dãy núi Vách Thưng Trời, thành cả muôn
núi ngàn đồi Tây Bắc nữa. Phía chói chang nhất có bức vách thưng trời (pha
phạ- tiếng Thái) năm tháng đỏ ậc, sừng sững che một góc trời; ở giữa có cái
hang giống 2 lỗ mũi con trâu (lăng quai) há ngoác lên tầng không khoe
bao nhiêu điều thần bí. Đỉnh Lăng Quai chính là mỏm cao nhất trên dãy núi Vách
Thưng Trời.
Vào thời kỳ đầu Pháp đánh chiếm Điện
Biên Phủ thì đỉnh Lăng Quai vẫn còn thâm u, huyền bí đến từng nhành hoa và rình
rập đến từng ngọn cỏ. Nghe nói từ lâu lắm, các Tạo Phìa và các vị chúa đất
quanh vùng thường xuyên tuyển trai tráng vũ dũng lên núi Lăng Quai để tìm sản
vật, bởi lời đồn trên núi có dòng suối tiên nên tất cả cái, con, cây, cành, củ,
quả… đều là thần kỳ dược liệu. Chỉ có thể nghe nói, là vì: cho dù các thổ dân
chinh lâm phạt cốc được các “người trời” (vua chúa Thái tự xưng là con trời do
quan niệm thiên mệnh, thiên lý, thiên ý, thiên uy) tuyển chọn bằng những cuộc
so tài khốc liệt, thông thạo kiếm cung, đồng chí sắt… và dù vậy nhưng các mãnh
hổ của rừng xanh cũng chỉ có đường đi chứ không bao giờ còn lối về, nên lời đồn
là của người ở nhà nghĩ ra. May mắn duy nhất trong số ấy thuộc về một lục lâm
bản ngã tên Câm, sau khi đi lấy được sâu chít và ong khoái về giúp cho chúa đất
ở Mường Muội đẻ được vương nam nối dõi. Nhưng người anh hùng của Mường ấy đã
trở nên điên dại, câm điếc... và không còn biết gì ngoài việc tối ngày vái trời
lạy đất.
Vào khoảng đầu những năm giặc
Phẻ tràn sang cướp bóc các dân tộc ven biên, thiên uy địa vũ một phen chứng
kiến đoàn nam thanh nữ tú do một thủ lĩnh họ Lò dẫn đầu, vượt qua miệng hùm
nanh sói với một khí phách đạp bẹp Vách Thưng Trời. Vẫn chẳng có gì mới mẻ,
đoàn người ấy đã không bao giờ trở về cái nơi họ đã ra đi như hàng chục đoàn
trước. Bẵng đi chừng vài chục năm, dân trong vùng bắt đầu kháo nhau là có người
trời xuống định cư ở đỉnh núi thiêng ấy. Tin này là do một người trong đoàn của
chúa đất họ Hà đi tìm bông lau mọc gần suối tiên về làm gối chữa bệnh mộng du
và nhai suông cho hoàng tử, nhìn mơ hồ qua lớp cây rừng dày đặc, thâm uất ở khu
vực chân núi; rồi anh ta cũng chẳng nhớ gì hơn nữa bởi trời đất bỗng dưng quay
cuồng, thần sắc tự dưng xám xịt như trúng một tảng đá to lở vào đầu. Khi tỉnh
dậy thấy đã nằm ở ven suối Then gần cung chúa đất, xa thẳm bên tai vẫn còn nghe
tiếng chỉ dụ rằng núi Vách Thưng Trời là đường để quân lính Ngọc Hoàng xuống hạ
giới tuần quản lãnh địa, gần đây bị quấy quả nên sai người xuống coi giữ. Câu
chuyện kể xong, hầu hết ai nấy lặng thinh như chưa từng được biết rồi lui lủi
về nhà lên cơn ốm dở. Duy có một vị vương người Khơ Mú là ấm ức, liền dẫn quân
đi khiêu chiến nhưng bị đánh bại chạy bạt về mạn Mường Quái; còn những người
trời thần bí kia biến mất vào trong sự ngờ vực của mỗi con người. Thường thế,
bao giờ trí tưởng tượng của người trần mắt thịt cũng cao siêu hơn các vị thần
nhà giời. Hơn cả thế, họ thường huênh hoang rằng, phần đa là nhân định thắng
thiên định. Một trong số loài người giải thích rằng, tưởng bở là định hướng
đúng đắn nhất và kỳ diệu nhất. Tất cả mọi truyền thuyết và mọi công trình khoa
học đều bắt nguồn từ sự tưởng bở siêu phàm! Vị anh hùng ngày xưa tồn tại theo
thuyết nghe nói, nghe kể, nhưng khít khịt với hiện thực ở Vách Thưng Trời. Còn
bây giờ, Vách Thưng Trời đang hiện hữu một nhân vật được coi là kinh dị, cũng
họ Lò, ông này bị thọt một chân nên có tên là Thót. Lò Thót. Cũn cộc thế, mà
gọi thưa đầy đủ. Nhưng sự bất bình thường không phải vì cái tên ít giống ai ấy.
Nghe người già kể,
cách đây chừng 60 năm, bản Lăng Quai cũng có một thằng Thót. Mới mười tuổi mà
nó nghịch như con hổ non, nhiều lần làm phiền lòng người trong bản. Nó dường
như chẳng bao giờ chịu buồn, và cũng chẳng chịu chơi lại một trò đến lần thứ
hai. Lần này nó thả trộm hai con trâu giống nhà ông Thâng và bà Tiêng cho húc
nhau đến lòi ruột, gãy sừng phải mổ. Lần khác nó nhốt con mèo nhà bà Piếng vào
chuồng thỏ nhà ông Oan cho mèo xơi hết lũ thỏ non; hay tháo gióng chuồng đuổi
đàn dê 5 chục con mới mua của nhà anh Thiềng lên núi, mắc công anh phải thịt
mất 3 con dê đãi làng để nhờ đi lùa. Có khi nó xua cả đàn bò nhà này vào nương
lúa nhà kia để cho hai nhà đánh nhau, rồi đến hai họ đánh nhau, nó ngồi ngoài
cười… Ông Han - bố Thót sau mỗi lần đền làng, và cúng ma bản bằng hàng chục
lợn, gà, vịt, gạo, rượu… là một lần gí khẩu súng kíp vào đầu nó, lên cò. Thót
trợn trân trân nhìn ông: “Bố sinh ra tôi thì cũng giết được tôi”. Rồi Thót quay
sang mẹ: “Mẹ khóc trước đi để bố còn siết cò”. Và lần nào nghe xong, ông Han
cũng chõ súng lên trời làm cái roành, đá thêm một phát vào cột nhà hoặc gốc cây
gần đấy, rồi bỏ đi. Thót dường như chừa ngay trò nghịch quỉ quái này, nhưng lại
tức thì bày ra trò chơi tai ác khác. Một lần, không hiểu do vô tình hay cố ý mà
nó làm kinh động đến cả người đã khuất. Một mình một thuổng, nó đào theo con tê
tê vào trong một ngôi mả tập thể. Ngôi mả to như một quả đồi con. Nghe đồn, đấy
là “ngôi nhà âm” của cả bản người Kháng, gồm ngót hai trăm người theo “thiên mê
đạo”. Họ rủ nhau chết để được lên trời, được chia đất và học phép thuật chỉ
việc ngồi hô biến là tất tật mọi thứ đất, đá, cỏ, cây… hóa thành trâu, bò, lợn,
gà, gạo, rượu… chẳng cần làm cũng có ăn. Cuộc tự sát tập thể diễn ra tại bãi
Đin Then (đất trời), bãi đất đã được lão Mo Thia - người sáng lập ra cái thứ
đạo viển vông cấp quốc tế kia - cầu cúng ròng rã một tuần trăng, mà mỗi ngày
giết một con trâu hoặc bò, ngựa do một hộ nộp để lấy tiết canh, lòng, bì, bốn
chân và cái đầu cúng… Chúa. Vụ thảm sát được truyền miệng một cách kinh hoàng
cho tới tận bây giờ. Thanh niên trai tráng chủ yếu tự chết bằng cách lao đầu
vào đá, hạ cánh từ ngọn cây hay từ trên đỉnh núi xuống vực. Người già, trẻ con
thì phải mượn “người ta” dùng dao phạt vào cổ, thọc vào tim hoặc “đùng!” một
phát súng kíp vào thái dương… Đống thi hài ngập ngụa máu me được sự chuyển động
của tạo hóa lấp dần, lấp dần qua hàng trăm năm, cuối cùng mối, kiến bao đùn
thành một quả đồi con con, ngay sát chân núi Lăng Quai.
Thót mang thuổng đi
ăn măng đắng, gặp con tê tê đen trũi chạy qua đường, rồi bỗng dưng rúc đầu vào
ngôi mả ấy. Thót lao đến chộp lấy đuôi con tê tê lôi lại, nhưng lớp vảy sừng
của nó giương lên cứng như đá tạo thành mũi khoan cứ miết vào thành hố. Mỗi lần
con tê tê xoáy tròn mình là lại kéo dần hai cánh tay Thót ngập lút vào trong
đất. Bất lực trước sức mạnh của con tê tê, Thót buông tay rồi dùng thuổng đào
theo gần hết một ngày, con tê tê chẳng biết chui đi đâu, chỉ thấy cuối cái lỗ
khoan của nó là một đống xương đã sứt mẻ, mục rữa. Thót tiếc con tê tê nên bới
tung đống xương lên, quăng mỗi nơi một cái. Đêm ấy, Thót lên cơn dại, gào hú
rùng rợn một hồi rồi bỏ chạy vào rừng, mất tích. Một người trong bản xưng xưng
rằng, tận mắt nhìn thấy Thót chết gục bên cạnh đồi mả. Ông này còn khẳng định,
ông nghe được tiếng những “con ma” người Kháng chết trong cuộc tự sát kinh
hoàng năm xưa tranh cãi nhau rằng, sau khi chết không lên được trời như trùm
đạo Mo Thia nói, nên rất đói, đành ăn nhặt ăn nhạnh xương của nhau, và ăn luôn
cả thịt thằng Thót…
***
Hai mươi năm sau,
bản Lăng Quai chứng kiến một người đàn ông tên Thót, quắc thước nhưng thậm thọt
trên 1,5 đôi chân, cùng với một bà vợ già hơn mình cả chục tuổi và hai đứa con
kín mít lông lá xuất hiện đột ngột như một tiếng gầm của con báo đốm. Bà vợ ông
Thót bị câm, ông phân bua: “Bà ấy thất tình nên ăn lá ngón tự tử, nhưng ăn
không đúng lá kịch độc (lá mọc hướng đông) nên chỉ bị câm và ngớ ngẩn chứ không
chết. Không nhớ đường về nên phải ở lại trong rừng ăn lá ở cành cho tới khi tôi
nhặt được”. Nhưng Mo Vạng lại nói: “Không phải như thằng Thót loan khai, nó là
cái Linh mẹ người bố khỉ. Không tin sang bản Phang hỏi bà Thùi xem có đúng thế
không? Bà ấy đi lấy rau sắng bị con khỉ đột bắt vào hang đá ở với nó 3 năm, có
hai đứa con, con Linh là cả, thằng Trưởng là út. Dân bản Phang khi tìm thấy
hang bà Thùi thì cái Linh đang được bố dẫn đi tập trèo cây nên không lấy về
được, chỉ được thằng Trưởng. Hơn một năm sau, một người thợ săn bản khác bắn
chết bố nó, định ăn thịt cả nó nhưng bà Thùi mang trâu sang chuộc. Nó không
thích ở nhà bằng ở rừng đâu, nó theo thằng Thót vì thằng Thót có cái chim to,
dài hơn người. Bọn khỉ đột cái, ngày không được ba bốn tí đàn ông thì sướng mấy
cũng bỏ đi.” Chẳng biết ai đúng ai sai, chỉ thấy gần như tất cả những chỗ hở ra
trên mình bà Linh (tiếng dân tộc Thái tức là khỉ) lông lá vàng xuộm. Bà với ông
Thót nói với nhau bằng tiếng mắt, tiếng tay thôi, còn miệng thì như đóng ván.
Hôm ông Thót về định cư gần Vách Thưng Trời, phía nguồn bản Lăng Quai, già Lò
Nọi tìm đến nhận ông Thót là thằng Thót con ông mất tích ngày xưa nhưng ông
Thót bảo, chỉ là giống tên. Dù thế thì bố ông vẫn đi khoe cả bản rằng năm xưa
ông Thót vào rừng đánh nhau với hổ tận hai chục năm giời. Đàn ông quả là hão và
điêu có điểm có phẩy, ấy vậy mà cả bản vẫn tin vẹo hàm, ít nhất cũng là niềm
tin ở tâm linh!
Hằng ngày, ông Thót
vun trồng khoai sắn với vợ, lúc rảnh rỗi xách súng vào rừng kiếm con gà gô, con
cu gáy. Lâu dần chuyện nhà ông trở nên quen cũ nếu không có một hôm, một người
thợ ăn rừng Lăng Quai đi núi bị nạn, được ông Thót cứu về. Sau khi nẹp đoạn đùi
bị gãy cho anh ta, ông Thót lục tục mang tin dữ xuống núi. Đến bữa ăn trưa, anh
ta chứng kiến cảnh bà vợ không ăn chín mà nhai ngấu nghiến tất cả những thứ
sống sít của loài linh trưởng. Mười bảy đứa con của ông Thót thì chỉ mười đứa
là sau lửa, còn năm đứa kia thực tanh theo mẹ. Ngay lập tức, chuyện ông Thót
lấy khỉ lại như ngọn lửa gặp cơn gió Lào bùng lên dữ dội. Người ta khẳng định
trăm phần trăm bà Linh là linh trưởng bậc cao. Chuyện bây giờ mới lộ là do ông
Thót giấu kín quá. Chưa hết, gã thảo khấu gãy chân được ông Thót cứu từ trên
vách núi lưng tầng trời xuống còn bảo, gã tận mắt thấy lúc ông Thót đi vắng,
bầy đàn nhà ông giao cấu tập thể. Chuyện nghe thối như cái mồm cả đời không
biết súc miệng của gã. Dân bản lại tin vẹo hàm. Hy hữu có người vặn gã, sao
không thấy mấy đứa con gái nhà ông Thót mang thai? Gã bảo: “Đồng huyết có mang
thế đếch nào được. Không tin các ông thử đè em gái, con gái các ông ra xem nó
chửa được không.” Rồi gã lại say sưa kể: “Có một đứa thấy tôi là giống người
nên mon men đến gạ. Mới đầu tôi cũng định thử xem cái thứ súc vật nó ra thế
nào, nhưng khi vạch lớp lông nách lên, mùi hoi nồng nặc như nước đái hổ, tôi co
hết cả vòi vào, chạy một mạch về đây” (gã chạy bằng niềm tin và một cái chân
gãy dở). Hàng trăm cái miệng Lăng Quai vỡ toác ra như người ta chẻ tre. Nội
dung câu chuyện nào về ngôi nhà ma làm ấy cũng bốc mùi hôi thối. Người nói thối
mồm, người nghe thối tai, vậy mà chẳng ai là không hăm hở. Họ kể như một chiến
công. Họ nghe như một bài học. Tất tật sấm truyền theo sự phình chửa của cái
mồm. Thậm chí sự bốc khoác và điêu ngoa phụ thuộc vào học thức và bằng cấp. Học
thức và bằng cấp càng cao bao nhiêu thì sự dối trá của câu chuyện càng đáng
kính bấy nhiêu. Đến khi chuyện con khỉ đẻ ra bầy khỉ, ăn tươi nuốt sống, giao
cấu bầy đàn… hết hấp dẫn thì người ta lại nghĩ ra một sự hấp dẫn khác, thông
qua một loạt các thử nghiệm mang tính chất khoa học hóa dị đoan. Một gã thanh
niên giấu con ngoé nướng vào trong vạt áo, rồi đi ngang qua trước mặt mấy cô
con gái nhà ông Thót đang làm cỏ nương bông trên sát Vách Thưng Trời. Tối ấy,
cũng gã thanh niên kia lên thang nhà ông Thót, nháy mắt về phía các cô gái, rồi
lập tức xuống thang xuôi về phía bản. Gần như ngay tức thì, cô con gái út nhà
họ Lò tên Lò Thoan lặng lẽ theo sau. Đến ngang dốc Tức Thở, bọn thanh niên bản
Lăng Quai xồ trong bụi ra, dùng đòn gánh phang chín nhát vào đầu cô bé. Sau đó
chúng còn dùng cậng chuối nướng đánh tiếp chín cái nữa, vừa đánh vừa hô: “Ma xó
chết này! Ma xó chết này!”
Cả ngày hôm sau,
ông Thót mới tìm thấy xác cô bé. Ông lặng lẽ chôn con cách nơi nó chút hơi thở
cuối cùng 17 bước chân - bằng số tuổi cô may mắn được hưởng dương - chếch về
Bắc. Xong xuôi, ông dắt con nghé non xuống nhà trưởng bản Lăng Quai để nộp phạt
về tội đẻ ra ma xó, mà trong bụng không khỏi lo cho chín đứa con gái còn đang
hơ hớ trong nhà! Lăng Quai sau đó được thành lập hợp tác xã, rồi chuyển đổi cơ
chế, rút gọn mấy hợp tác xã nữa trong vùng thành xã. Xã Lăng Quai là xã 135,
cách trung tâm huyện lị hơn 60 cây số. Với đồng lương phụ cấp vừa thấp vừa
chậm, cán bộ xã bỏ về hàng loạt, huyện phải động viên bằng thóc, ngô, khoai,
sắn, dầu, muối… cán bộ mới chịu quay lại nhiệm sở. Ông Thót được xã vời xuống
giao nhiệm vụ làm bưu tá, mỗi tuần hai chuyến ra Bưu cục cụm xã lấy thư báo,
công văn, điện tín. Chẳng phải ông Thót là nhân vật duy nhất khả dĩ làm được
bưu tá mà vì khoản thù lao cho 15 cuốc đi về trên tháng để được hưởng mức quốc
phí khoản đãi bằng 5,3 ngàn đồng một lần, cộng thêm 1,3 ngàn đồng dân phí nữa.
Đã có cả chục con người thử sức chịu đựng, nhưng ngay trong chuyến đầu tiên
vượt qua tiếng thở dài của núi, của rừng và ngót bốn chục cây số cả đi lẫn về
của con đường mòn liên xã, đã phải quẳng gánh thư đi khi còn chưa kịp ra tới
nơi, vào tới chốn. Ông Thót biết trước cú thắng ngược về kinh tế được các bậc
cao nhân ưu tiên cho ấy, nhưng vì nó chính là món nợ đời, nợ bản, nợ mường mà
ông, vợ con ông tâm niệm trả, nên cứ lùi lụi đi về như thế hơn 20 mươi năm
trời. Khi mà ông đã bước sang tuổi bảy mươi, và khi mà cái thời buổi thông tin
hiện đại, bên ngoài điện thoại không dây, thư điện tử, rồi trực tuyến… ngồi nói
chuyện cách xa nhau cả nửa vòng trái đất vẫn nhìn thấy cái gầy, cái béo trên
mặt nhau; cùng lắm mới phải cưỡi trên lưng con minkhơ phóng như bão giật, người
ta vẫn bắt gặp ông Thót cành cạch lội bộ như một cuộc tu tỉnh đời mình.
***
Năm Bính Tuất ông
Thót chết, hưởng dương 77 tuổi. Cái chết của ông là dấu chấm hết cho câu chuyện
bi ai. Nhưng không phải! Ấy là tưởng thế thôi, mặc dù, khi tôi biết ông Thót,
vợ ông và rất nhiều người con ông dường như đã biến mất từ lâu. Ông Thót ở với
hai người con trai giống người như đúc. Tiếng nói cũng của người. Đi đứng, ăn
mặc, thậm chí cả cách thức vệ sinh cũng của người. Cả hai ông anh ấy đều lấy
được vợ đẹp, đẻ được con khôn. Nhìn toàn cảnh thì không tài nào tìm ra tàn tích
của ngôi nhà quái gở năm xưa đâu cả. Có lẽ nó được mai táng trong cái mà người
ta gọi là mồm thiên hạ chăng? Tôi đinh ninh thể nào cũng có ngày tôi đè ông
Thót ra mà tra tấn về cái quá khứ chưa chắc đã là của ông (và có lẽ cũng chẳng
phải của ai cả), nhưng không kịp. Ông ra đi như chạy trốn tôi, chạy trốn cuộc
đời vậy. Tôi còn thật nhớ vào một buổi chiều cuối cùng của tháng chạp năm ấy -
ngày mà người ta, dù là lao nông hay quan nhân, kẻ sĩ thì cũng đã sum vầy bên
mâm cỗ tất niên, nhưng ông Thót vẫn phải mò mẫn ướt sũng trong màn sương giăng
dày đặc trên đỉnh núi Lăng Quai; vừa là đi nốt chuyến công thư cuối cùng trong
năm, vừa tìm đến nhà tôi nói là có việc (ông Thót cứ ấp úng gần 2 năm trời mà
không thốt cái có việc ấy ra được. Chắc ông muốn hỏi về khoản chế độ bưu tá
không bao giờ có... chân đi của ông, là tôi đoán mò thế, chẳng
biết có phải vậy không). Thật kinh ngạc cho kỳ công của ông Thót. Tôi đã từng
nếm mùi vượt Lăng Quai. Ngay khi vừa xuống đến chân núi, tôi liền quì mọp gối,
chắp tay vái lạy nghiêm trang như một lời... vĩnh biệt! Tôi thề trước đôi chân
sưng húp của mình rằng, vĩnh viễn không bao giờ quay lại nơi cao thiêng dày độc
ấy nữa. Nhất về mùa đông, ngay những người bản ngã cũng ớn tận óc khi nghe tới
sương mù chót chạp, bởi nó dày đến nỗi vập mặt vào nhau, chưa kịp nhận ra ai
thì gió bấc đã vả tới, kéo tuột khỏi những cặp mắt tối như cổ chai nút lá chuối.
Ông Thót chưa đặt
mông xuống ghế đã móc trong tay - một loại túi Thái - khoác
trên lưng ra cho dăm bắp ngô nếp, cái thứ mà suốt tuổi thơ tôi đã phải gặm,
phải rang, phải xay, phải bung... để mà sống nên quả tình ngán lắm, ngán đến
cổ; rồi khó nhọc trình bày: “Biết ngày tết người Kinh thích hoa đào. Khi đi, bố
đã leo lên Vách Thưng Trời chặt một cành, nhưng lúc xuống ngã gãy rồi”. Tôi cảm
ơn món quà mồm bằng một thái độ thành kính. Tết năm sau, vẫn là chuyến công thư
cuối cùng trong năm, ông mang tặng tôi một con chim mà theo ông là rất quý bởi
cũng như cành đào, nó là con của núi cấm, rừng thiêng. Con chim có bộ lông xanh
biếc, to già nắm tay, không biết hót mà chỉ biết kêu; nó kêu quàng quạc như con
vịt mái, đến nỗi làm đứa bé mới sinh nhà hàng xóm vừa vất vả lừa ngủ đã lại bật
khóc thét lên, rất phiền. Nhưng con bé nhà tôi lại khớp cạ cái con chim vịt ấy.
Nó quý con chim nên chăm lắm, không cho thả càng không cho giết. Ngày ngày đút
ăn hết chục ngàn tiền hoa quả ngon (loại chim này chỉ ăn hoa quả), món tiền mà
theo điều kiện của gia đình tôi chỉ có thể bớt ra từ tiền ăn sáng của chính tôi
và nó.
Còn ông Thót, từ
đó đến khi ông mất, mỗi lần gặp ông lại hỏi, vừa to vừa cụt, nhưng tỏ rõ sự
quan tâm: “Thế nào?”. Tôi bảo: “Đều tốt đẹp!”. Ngớ ngẩn thật. Tôi chẳng biết
ông Thót hỏi cái gì là thế nào, và dĩ nhiên ông cũng chẳng biết tôi đang khen
những cái nào đều tốt đẹp!
Chỉ biết hơn hai
mươi năm gánh thư trên đỉnh Lăng Quai khổ ải và tàn khốc, ông Thót chưa một lần
ốm; bằng chứng là tôi chưa bao giờ thấy xã Lăng Quai - xã 135 kinh niên, hoạt
động 100% nhờ chỉ đạo của trên qua công thư - bị… ốm đến liệt giường liệt chiếu
cả./
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét