28 tháng 2, 2013

KHÓC TRÂU


Phóng sự

     Đã 50 năm qua, chưa bao giờ Điện Biên rét kinh hoàng đến thế. Những năm 1973, 1986, 1989… rét xuống âm độ, nước ao hồ đóng băng, ta đi mà ngỡ như lạc vào một góc nào đó của Bắc cực. Nhưng cái khắc nghiệt chỉ kẹp nhau có dăm bảy ngày, vạn vật chưa kịp nghẹt thở. Năm nay dường như đất trời nổi giận với Điện Biên vậy. 38 ngày rét tựa giáo đâm vào tim gan phèo phổi. Cỏ khô lụi; mạ, cá thối rữa; gà, vịt, lợn, trâu, bò… chết như thể tai họa giáng xuống từ vũ trụ…
     Rét như cắt đường sống
       Tất nhiên là không thể so Điện Biên với Sa Pa (Lào Cai) hay Mẫu Sơn (Lạng Sơn) rét từ -2 - -50c được; và cũng có lẽ vì rét vừa chớm ngọt đến xương nên người Điện Biên khoái mà sinh ra chủ quan chăng? Đã cả chục năm nay, Điện Biên đón Tết Nguyên Đán trong cái nắng gió Lào sạm da cháy thịt. Tết đến, mọi cuộc sum họp được làm mát bằng cách không thịt mỡ, không bánh chưng, không rượu. Các hãng nước ngọt đã trở nên quen thuộc với cái vị ngọt bội thu mỗi tết. Nhưng tết năm nay thì khác. Trời rét, lại khô - một sự ban phát tuyệt diệu dành riêng cho những cuộc du xuân bách bộ mà không lo bị mồ hôi làm bẩn những bộ cánh cả năm mới trương ra một bận. Một thứ rét được người ta mong đợi từ lâu, cả vì tính năng “bảo quản thực phẩm” của nó. Nhưng, sự mong đợi ngọt ngào bỗng dưng trở thành ác mộng. Tính đến ngày 20.2.2008, Điện Biên đã chìm trong 38 ngày rét đậm rét hại. Nhiệt độ ban ngày xuống đến ngưỡng từ 0 - 2 oC ở các vùng núi cao (Pha Đin - Tuần Giáo; đèo Tằng Quái - Mường Ảng…); 6 - 7oC ở hầu hết các vùng thấp. Như thống kê của Sở NN & PTNT, tính đến 15.2 toàn tỉnh đã có 1.429 con trâu, bò bị chết do rét, thì ở huyện Mường Ảng có tới 361 con, (chiếm 38,1%). Tuy nhiên, theo con số thống kê chính xác của Phòng kinh tế huyện Mường Ảng tính tới chiều tối ngày 21.2 vừa qua, số trâu, bò bị chết rét đã lên đến 834 con (chiếm 58,36% số lượng trâu, bò chết toàn tỉnh) và 187 con dê, ngựa, lợn… nữa. Mặc dù trời đã bắt đầu ấm và nắng, nhưng dư âm của địch hại chắc chắn chưa buông tha cho đàn gia súc vốn đã kiệt quệ. Bệnh tả, viêm phổi, ghẻ, nhiễm trùng uốn ván, suy nhược… đang là nỗi lo chính sẽ cướp đi nhiều trâu, bò nữa vốn lay lắt lại qua đợt rét. Huyện Mường Ảng vụ xuân năm 2008 cấy 644 ha, thì có tới 386 ha đã chết (theo các chuyên gia nông nghiệp thì sẽ còn chết hàng trăm ha nữa. Cây lúa nhìn còn leo lét xanh, nhưng khi lội xuống, nhổ lên thấy hầu hết đã thối rễ và nõn). Suốt từ tết Nguyên đán, chúng tôi vạch sương mù và giá lạnh đi về các bản vùng cao, vùng sâu của huyện Mường Ảng. Cá dưới ao như bị ướp đá, chết chìm chán cho đến khi thối rữa mới chịu nổi lên mặt nước. Dê, ngựa, lợn… sáng còn đủ tỉnh táo và dũng cảm bước ra khỏi chuồng đi tìm cái bỏ bụng, chiều một số con mắt mờ, chân cứng, sức kiệt do rét và do chẳng tìm thấy gì ngoài gió với đất nên ngã lại rừng sâu, để chủ đi tìm đến suýt không thấy cả đường về. Gà thường ít bị chết rét, vậy mà nhiều nhà ở Ẳng Cang, Mường Đăng, Ngối Cáy… đã được chủ “nuôi khô” cả bầy trên gác bếp để làm thức ăn dự trữ. Gia súc, gia cầm chết. Cây trồng, cỏ hoang chết. Cả người cũng sinh bệnh mà quy tiên vì rét. Chỉ trong vòng mươi ngày đỉnh rét trước và sau tết Mậu Tý, 3 cụ già ở xã Ẳng Cang đã vội vã giã từ con cháu để về trời, trong khi các con còn chưa lo xong nỗi lo mất mùa, mất của…

     Khóc trâu, khóc mình

       Chúng tôi về 2 xã có số trâu, bò thiệt hại nhiều nhất huyện Mường Ảng là xã Ẳng Cang (183 con) và xã Ẳng Tở (101 con) thì thấy tràn ngập một không khí ắng lạnh và ai bi. Trong số hàng trăm hộ có gia súc chết thì phần đa còn rất nghèo, phải vay ngân hàng, phải nhận nuôi dẽ, nuôi thuê… mới có được một “đầu cơ nghiệp” trong nhà, nhằm đỡ đần phần nào sức kéo. Đến nhà các anh Lò Văn Pan - phó bí thư Đảng ủy; anh Lường Văn Tài - phó trưởng công an xã Ẳng Cang … có số trâu thiệt hại nhiều nhất (4 con) thấy đều có chung hiện tượng trâu bò bị đói nhiều ngày, sức khỏe suy sụp dẫn đến viêm phổi mà chết. Nhà anh Tài có tổng cộng 9 con trâu, thấy rét quá, anh che gió, nhưng vì thói quen tích lũy từ 50 năm qua, anh Tài cũng như các hộ dân trong xã không năm nào thu nhặt rơm, rạ về làm thức ăn dự trữ cho trâu, bò vì “cỏ trên rừng rất nhiều”. Tuy nhiên, năm nay cái rét dài làm cho cỏ nhanh chóng khô lụi, trâu bò thiếu cái ăn, anh Tài đã dùng toàn bộ đồng lương phó công an xã để mua hàng tạ gạo, cứ cách ngày lại nấu cháo cho đàn trâu. Chưa hết, anh còn mua cả ô tô củi để đốt cho trâu sưởi. Đền đáp lại ân tình của chủ, từ 25 tháng chạp Đinh Hợi đến 6 tháng giêng Mậu Tý, chỉ có… 4 con bị chết do không chịu nổi cái rét như liệt cơ, tắc máu. Những con trâu còn lại sau rét gầy rộc như đang ủ bạo bệnh. Nỗ lực đốt lửa cứu trâu của anh Tài làm một con bỏng nặng, do: “Nó cứ đút mãi cái mặt vào bếp”. Đến khi da cháy, mỡ nhỏ xuống than xèo xèo, chủ bật khóc vì đau mà trâu thì vẫn… chưa thấy ấm(!)
     Xót hơn là các ông Lường Văn Hương, bản Noong Háng; ông Lường Văn Lọ ở bản Co Sản… (xã Ẳng Cang). Không trông chờ gì nhiều vào quỹ ruộng nương ít ỏi chẳng năm nào đủ ăn, ông Hương nhờ vốn vay giúp đỡ phụ nữ nghèo của vợ mua được con trâu cái, ông chăm như chăm con mình. Năm trước mất trắng mùa lúa, ông cắm thóc non thành gạo để nấu cháo, cắm sắn non mua bạt đắp cho trâu, vậy mà sáng ấy, hai mẹ con nghé ọ gọi nhau ra trước cửa nhà, cả 8 cái chân liệt cứng lại, mẹ con nhà trâu ngã từ từ xuống tận… âm phủ. Buông tiếng khóc cho mẹ con nhà trâu, dù đã nhờ bản ăn thịt hộ rồi mà vẫn chỉ thu lại được 1/4 giá trị. Ông Hương lại khóc cho cái số cún, bòn mãi mà chẳng nên ăn, và khoản nợ ngân hàng đã cận kề ngày trả. Ông dẫn tôi ra cái chuồng mới được đầu tư “bao tải rách” để chắn gió khi đã… mất trâu, hình như hơi ấm của mẹ con nhà sửu vẫn còn lảng vảng đâu đó trong mắt ông già! Ông Lọ thì mặc dù cay đắng cho mình, cho số phận con trâu cái duy nhất có được “nhờ tiền người” vừa bị xả thịt, nhưng trong lời kể vẫn tự hào bởi “con trâu nhà ta có phẩm chất anh hùng” và “dũng khí của một kẻ võ”, không chịu khuất phục dễ dàng trước cái rét đang đóng băng dần từng khoảng không khí quanh nhà: “Nó chết đứng như… bác Từ Hải chú ạ. Đến khi gọi 4 - 5 người đến đẩy vật ra, nó vẫn “gồng” cứng lên như hóa thạch…”
       Nhà anh Lò Văn Nọi, bản Tọ Nọ, xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng có 9 khẩu, nhưng chỉ 2 vợ chồng anh là lao động chính. Với 1000m2 ruộng, và gần 1ha nương sắn, đã nhiều năm liền gia đình anh lâm vào cảnh đói kém. Sang năm 2008 này, cái đói càng về nhiều hơn do vụ mùa năm 2007 mất trắng. Tháng 9.2007 vừa qua, anh bàn với gia đình chuyển nhà vào trong nương, vay tiền ngân hàng, đầu tư ủi được 8000m2 ao và nhận nuôi dẽ 38 con bò của người ngoài thị trấn để tạo thêm công ăn việc làm phù hợp với bố mẹ già và con trẻ. Theo thể thức “băm đôi” khi đàn bò sinh sản, anh hy vọng không lâu nữa, gia đình anh sẽ đổi đời. Nhưng rồi, mới được 3 tháng, đàn bò chưa kịp đẻ thêm con nào để mà ăn chia thì đã chết đi 24 con. Số còn lại chưa biết chịu được mấy nả khi mà một loạt bệnh phát sinh vào thời hậu rét. Những cuộc điện thoại giữa đêm khuya anh gọi về cho chủ đàn bò, họ đã không buồn nhấc máy. 24 con chết đi như một chiếc thòng lọng đang đợi anh Nọi. Anh ước: “Mong cái ngày quyết toán đầu năm với chủ bò đừng đến...”
       Ở thị trấn Mường Ảng , huyện Mường Ảng đã từ lâu người say làm kinh tế  biết danh các anh Nguyễn Văn Tính, ông Ngọ - Hơn, anh Mai - Quận, ông Hòe… về tài nuôi bò “không chuồng, không đồng bãi”; hộ ít nuôi 3 - 4 chục con, hộ nhiều như anh Tính, ông Ngọ nuôi từ 250 - 290 con bò. Vụ rét vừa rồi người ít chết hơn 10 con, riêng gia đình anh Tính, đến thời điểm hiện tại (21.2.2008) bị chết đến 61 con cả bò và bê tại 9/9 điểm nuôi gửi. Theo ước tính, gia đình anh Tính thiệt hại trên dưới 150 triệu đồng, chưa kể công chăm dắt, tiền thuốc, tiền thức ăn, tiền đầu tư chống rét… Lúc chúng tôi chuẩn bị tạm biệt anh, thì một đoàn cán bộ thị trấn đến thống kê số bò thiệt hại. Anh Tính lặng lẽ đi vào buồng trong. Anh đang lo ba năm nữa phải làm gì để lãi thật nhanh, bù đắp lại cái mất chỉ trong chưa đầy nửa tháng…
      Sưởi ấm những tấm lòng

       “Tàn khốc quá” là những gì mà Bí thư Đảng ủy xã Ẳng Cang (Mường Ảng - Điện Biên) Lù Văn Đón nói với chúng tôi. Biện pháp gì ư? Đã làm tất cả những gì có thể nhưng đều bất lực trước một hiện tượng thiên nhiên hung hãn. Khi trên địa bàn xã bắt đầu có trâu, bò chết rét, Bí thư Đón đã đi về các bản, đôn thúc bà con lấy bạt che chắn, vệ sinh, rắc vôi, gio chuồng trại; may áo, thắp điện sưởi, nấu cháo cho trâu, bò. Tuy nhiên, theo anh thì rất ít hộ dân thực hiện được. Chung quy cũng tại cái chủ quan, hơn nữa vẫn là cái nghèo, cái đói cố hữu. Trong khi người ta vui vẻ đón xuân, Bí thư Đón triệu tập cuộc họp khẩn cấp, nhằm “cứu hộ” phần nào thiệt hại đang hoành hành khắp bản trên, mường dưới; anh giao nhiệm vụ cho các trưởng bản, bí thư chi bộ, cán bộ Đảng ủy, UBND… phải kêu gọi 100% các hộ dân cư đến làm thịt, chia, khoán “ăn” với mức giá 50 ngàn đồng/kg gồm cả thịt, xương, da, lòng…; hạn cuối trả tiền cho chủ trâu, bò là vụ lúa mùa 2008. Khi chúng tôi đến, 183 con trâu bò, và 187 con dê, ngựa, lợn không con nào mang được ra chợ huyện. Tất thảy gần 30 cán bộ biên chế UBND xã đều đã trở thành “con nợ” ít nhiều trên dưới 1 triệu đồng, tiền “bị ăn” thịt trâu, bò chết. Trưởng phòng Kinh tế huyện Mường Ảng Nguyễn Hữu Hiệp, cũng cùng đoàn cán bộ xuống tất cả các bản, xã để hướng dẫn bà con chống rét cho gia súc và cây trồng. Anh dự báo số trâu, bò và gia súc khác có thể sẽ còn chết nữa khi trời đã nắng ấm và khi tới đây 26 - 27/2 tiếp tục những đợt rét mới như các cơ quan khí tượng thủy văn tỉnh, khu vực và Nhà nước khuyến cáo. Việc đầu tiên là các chủ hộ gia súc nên chủ động và nhanh chóng tiêm phòng những bệnh nhiễm trùng, nhiễm trùng đường hô hấp, tả, ghẻ… để tránh gia tăng thiệt hại. Quan điểm của tỉnh Điện Biên và huyện Mường ảng là quyết không để một mảnh ruộng nào không có giống. Mỗi trâu, bò chết sẽ cố gắng hỗ trợ cho người dân từ 500 - 1 triệu đồng, và chỉ đạo các ngân hàng CSXH khoanh nợ cho những hộ dân đã dùng tiền vay ngân hàng để mua gia súc và bị chết… Thế nhưng, thiết nghĩ, để xã hội sống tốt hơn, tự tin hơn trước những thiên tai vốn ngày càng khó tránh, những người có trách nhiệm nên chăng xây dựng chiến lược mang tính bền vững và hiệu quả trong sự nghiệp cải cách, phát triển và xây dựng xã hội… Về phía người dân, từ bài học đắt giá ấy càng nên thương mình bằng cách lượm nhặt vào cõi ngẫm nhiều hơn thứ kiến thức sản xuất tiên tiến thì mới hy vọng an toàn cho công cuộc “phú vị canh nông” này…


Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét