1 tháng 2, 2013

THEO EM VỀ PHÍA NÚI

            Chiều thứ bảy.
            Đám học trò háo hức thay cho cái háo hức của Ngân, túa về các ngả, khuất nhanh vào lớp lớp cây rừng. Đã hai năm, kể từ ngày Ngân lên dạy học trên ngôi trường bản cao chót vót như thể nửa tầng trời này, chưa bao giờ quen được nỗi buồn da diết với cái không khí ắng lạnh mỗi khi tan lớp.
Nhớ lúc còn là sinh viên, cứ mỗi chiều thứ bảy được mẹ cho phép gác sách, Ngân nhảy tót lên xe, đạp lòng vòng hàng giờ quanh thị xã. Cả trăm con ngõ nhỏ trôi qua vòng quay của bánh xe, mỗi tuần mỗi khác. Khi đã giãn não, Ngân tạt vào nhà dăm ba đứa bạn, tán chuyện ngẫu đến tận tối. Hoàn cảnh bây giờ khác rồi. Tất cả những thứ đó chỉ còn sót lại như một giấc mơ xa trong miền ký ức cũng dần lên màu cũ kỹ, nhưng lại vô cùng thèm khát được sở hữu một chiếc đồng hồ quay ngược thời gian. Ngân ngồi hàng giờ như một viên cuội trắng ở bờ suối Tô - con suối dường như không có một đoạn nào phẳng lặng - để chờ đến giờ trời đổ ráng. Thói quen này đã hình thành suốt quãng thời gian qua như một sự giải trí, giết chết cái khuân thời gian đầy ắp sự nhàn rỗi và nỗi cô đơn tê tái. Từ bên kia nóc nhà Đông Dương, dải sương trắng nom ngon như mẻ sữa cứ ngấp nghến như chỉ chờ nắng tắt là tràn sang đóng băng tất cả. Lớp học trống tuồng của Ngân, sáng đón chục em học sinh lớp một, chiều đón dăm bảy em học sinh lớp hai, đã bắt đầu lạnh. Hơi ấm và những dư âm lảnh lót cuối cùng của bầy trẻ nô đùa cũng dần tan đi theo những cơn gió quét ngang qua bãi đất. Theo các cựu đồng nghiệp thì lớp học loại đó gọi là lớp chờ, bởi nó được mở ở các bản xa, cách trường trung tâm cả ngày đường, để giúp các em nhỏ chưa đủ sức đi bộ; vừa học vừa chờ lớn.
            Từ trên bục giảng nhìn xuống chân núi, con đường mòn độc đạo vắt vẻo như một sợi mây, đong đưa trong ngấn mắt. Khi tối sập, con đường chỉ còn là ảo giác phù phiếm, mơ hồ, tạo cho bất kỳ ai cái cảm giác viễn tưởng, không tài nào bắt được. Thảng hoặc xa xa trên các triền núi, một vài bóng đèn dầu len lét, đủ làm nên một nốt sáng vừa vặn bằng đít con đom đóm chết. Ngôi nhà tạm của Ngân cũng là một trong những nốt sáng ấy, nhưng nhìn từ phía núi bên kia. Hôm đầu nhận lớp, Ngân leo ròng rã hai ngày từ huyện vào trường, rồi từ trường lên bản khiến các khớp chân sưng phồng, nhức cả tuần trời không ngủ được. May mà khi ấy gặp được già Tâu xuống chợ mua muối, mua dầu, đèn, kim chỉ về, cho túm nhờ đuôi ngựa lên đỉnh núi, nếu không chỉ còn cách ngủ lại giữa lưng rừng. Bây giờ Ngân sợ nhất là có việc phải xuống núi. Đến nỗi, nhiều khi, cái không gian mênh mông vô tận và buồn hun hút cộng hưởng thêm nỗi nhớ nhà, nhớ bạn, nhớ những buổi đạp xe đi như mộng du, nhưng êm đềm và sảng khoái trồi lên như một cơn nghiện, muốn cai được chỉ cần nhắc tới đi bộ là tất cả trật tự lại như lớp học của Ngân vậy. Mua sắm - nhờ. Gửi thư - nhờ. Đến nỗi họp cơ quan nếu thể cũng muốn nhờ nốt. Phiên chợ dưới chân núi mờ xa, một tuần mở một phiên, không khi nào phóng tầm mắt tới nổi. Lâu lâu thèm chút thức ăn tươi, Ngân gửi theo người xuống chợ. Có khi các anh, các bác mua xong, con ma rượu kéo đi hết làng này bản kia, thăm những người anh em của mình, của vợ mình, của thằng con rể, của đứa con dâu; thậm chí là đứa con trai sinh cùng ngày dưới bệnh viện huyện với cái chắt gái, mà hai nhà đã có ý hứa gả ngay khi cập kê mon men vào tới ngõ. Cứ như thế, cân mỡ, mớ rau, con cá của cô giáo chu du theo chân họ cho đến khi về tới bản thì ruồi nhặng bu theo cả một dây dài, bởi thứ mùi tươi đã trở nên oai hoại. Vậy là Ngân đành cho luôn. Vì cũng chỉ có họ mới biết cách chế biến thịt ôi thành những loại thực phẩm khô, ngửi thì ghê nhưng ăn rất nhớ. Hôm nay là ngày già Tâu đi giao ban dưới xã về, rẽ qua ngôi trường độc cư dưới tán rừng đầu nguồn, đưa cho Ngân một tập công văn của trung tâm. Thường thì trong đó có tất tần tật từ thông tư, chỉ thị của Bộ, của Sở, của Phòng đến những lá thư, túi quà dưới trường nhân có chuyện vui… gửi lên. Thậm chí còn có cả các loại văn bản phô tô, ghi chép những cuộc họp cơ quan mà Ngân nhiều lần không thể xuống dự. Trước khi về bên kia núi, già Tâu cẩn thận dặn:
   - Cô giáo sắp có khách đấy. Con trâu cái nhà ta đến ngày sinh, ta phải về với nó, xong ta sẽ sang chờ cùng cô giáo.
            Vậy là từ ngày lên bản, lần đầu tiên Ngân có khách. Ngân thấy mình run lên vì một lý do nào đó, rất khó hiểu. Nếu là Thanh tra chuyên môn thì đã được vỗ yên phần nào, mặc dù trước khi Ngân đến, tiếng Việt đối với các em vẫn còn là ngoại ngữ. Có lẽ nguyên nhân bứt rứt, hồi hộp mãi không chịu ngủ yên trong huyết quản Ngân là món quà được đón khách!
           
***

Sáng chủ nhật.
            Dõi cái nhìn thâm quầng xuống chân núi. Say sưa đến lỡ cả bữa trưa. Mãi tới lúc già Tâu cắt rừng sang, Ngân mới như người bị đánh thức một cách tiếc nuối, khi giấc mơ đẹp còn đang dang dở. Như nghe được tiếng buồn hun hút trong bụng cô giáo người Kinh, già Tâu đặt gánh có măng chua, có rau sắng, có củ mài, có gà, có rượu xuống, an ủi:
   - Ta đã xuống huyện xin cho thằng Tức đi học cấp tốc. Cô giáo cứ hòa bình cái bụng đi, ba năm nữa nó về, ta xin cho cô giáo xuống.
            Ngân đã thuộc làu điệp khúc ấy của già Tâu ngay từ ngày đầu đặt chân lên bản, nên câu trả lời chỉ nói lên sự cồn cào trong Ngân từ đêm trước:
   - Họ vẫn chưa đến!
   - Ừ, chân non thế phải trăng mọc mới tới. Để ta làm cơm đợi họ.
            Chiều rơi thăm thẳm xuống chân rừng. Những tia sáng gay gắt ban ngày nhường chỗ cho quầng ráng mỡ gà, vàng rực phía tây đồi. Một đàn chim cu xanh từ mỏm rừng lao vút vào không trung, chao cánh vài vòng rồi nhằm hướng mặt trời bay đi mỗi lúc một vội vã, để đến khi mỗi con chim còn lại như một hạt đậu đen, bâu vào, kéo tụt khối lửa khổng lồ xuống bên kia núi. Trong chiếc chái bếp được nới ra từ gian nhà lúp xúp để trống gió, già Tâu vươn vai đứng dậy, phủi tay bồm bộp vào hông quần bụi bay mù mịt thay cho việc rửa, rồi cất tiếng như chui trong ống khói ra:
   - Xong, thế là chỉ chờ nhốt tất vào bụng nữa thôi cô giáo ạ.
            Vừa dứt, ông đột ngột quay sang phía Ngân:
   - Cô giáo đã nhận vòng chưa?
   - Dạ chưa!
   - Thế à! Hay cô giáo nhận vòng của thằng Tức nhé?
            Ngân thoáng giật mình trước lời đề nghị vồ vập của già Tâu. Chưa biết phải trả lời sao thì nghe tiếng gọi. Ngân ào ra cửa và ôm chầm lấy người đồng nghiệp cùng trường, bật khóc.
   - Chị Thanh!
            Giây phút xúc động thăng hoa lên như một cơn tăng huyết áp khi ánh mắt Ngân bắt gặp cái nhìn của vị cán bộ trẻ vẫn lặng lẽ quan sát Ngân nãy giờ.

***

            Ngân kém Toàn hai tuổi. Cả hai cùng được sinh ra dưới mái nhà tập thể của trường trung học sư phạm tỉnh. Mẹ Ngân là giáo viên văn. Cha Ngân là bộ đội Biên phòng, cả tuổi thơ Ngân ông đóng quân ngoài biên ải. Còn bố mẹ Toàn đều là giáo viên toán của trường. Hồi bé, Toàn thường tỏ ra người lớn hơn Ngân và sẵn sàng xả thân che chở những trận đòn của bọn con trai bản lạ mỗi khi Ngân bị bắt nạt. Dù vậy, cũng không ít lần Toàn khiến Ngân buồn tưởng chừng kéo dài muôn kiếp. Có bận giận nhau, Toàn kể công và đòi Ngân phải trả lại Toàn tất cả những gì đã cho Ngân. Từ quả dâu da, quả mận rừng hay hòn đá kỳ có hình thiếu nữ, và cả con ốc anh vũ núi, úp vào tai quay mỗi hướng lại nghe thấy tiếng một loài thú kêu. Dĩ nhiên, nhiều thứ Ngân không thể  nào trả giống y như cũ được, bởi chủ yếu Toàn đòi những thứ đã ăn đi lâu lắm rồi. Lúc ấy Toàn hào phóng tuyên bố như con một gã địa chủ:
   - Cho con Ngân nợ suốt đời!
            Giận thế nhưng Ngân cũng chỉ có Toàn là bạn thân, là người anh để gửi gắm và nhờ cậy. Nhớ ngày còn sơ tán máy bay Mỹ ở sát biên giới Việt - Trung. Trong cơn hoảng loạn, Toàn băng qua làn bom đang điên cuồng đập nát vụn khu tập thể giáo viên và một số phòng học của sinh viên để tìm Ngân, rồi lôi Ngân chui vào một hang đá sau núi Tía. Hai đứa ngồi co ro cả đêm trong bụng núi đã bị bom lấp một phần cửa vào. Chờ lúc đói nhất, Toàn mới lôi trong túi ra một củ sắn sống, hai đứa chia nhau gặm trong khi cả trường đổ xô đi tìm trong cái rừng lửa bốc ngùn ngụt ngang trời. Lại một lần nữa trường chạy trốn máy bay Mỹ về một nơi còn thiêng, còn độc gấp trăm lần ba đợt sơ tán trước. Toàn và Ngân đã trở thành trai thanh gái lịch của khu dân cư rừng rậm ấy, cho tới ngày Toàn vào nhập học chuyên nghiệp. Hôm ấy, sau khi bữa tiệc chủ yếu bằng hoa quả rừng diễn ra chóng vánh vì lý do an ninh với các bạn cùng lớp, Toàn dắt Ngân ra bờ suối Xô Lô. Hai đứa ngồi tựa lưng vào rễ cây sung có cái tán tỏa xum xuê như thưng xuống mặt nước. Điều kiện của ngay cả con giáo viên sư phạm như Toàn và Ngân thời bấy cũng chẳng thể có lấy một thứ gì để mà tặng nhau làm quà lưu niệm. Như đã chuẩn bị sẵn, Toàn đu lên cành sung lấy xuống một vòng hoa tím, kết từ hàng trăm đóa bằng lăng, rồi đội lên đầu Ngân thay cho tiếng lòng thủy chung son sắt của người con miền núi, ngô nghê, ngốc nghếch nhưng thật thà như củ mài, củ nâu khi phải xa người yêu về thủ đô học đại học. Lần đầu tiên trong đời Ngân đã khóc. Ngân khóc cho một sự bâng khuâng khó tả, và cũng khóc cả cho sự sung sướng vì có đứa đã thực hiện được lời thề trong hang đá hôm nào, là nếu còn sống sót nhất định phải làm thầy, cô giáo để dạy chữ cho học sinh nghèo miền núi. Ngân cũng lấy ra một cuộn giấy trong có nhành hoa lá ngón vàng, trao cho Toàn như thầm nói thay cho tấm lòng vĩnh cửu, suốt đời chỉ biết gắn bó, tôn thờ và chờ đợi một người như thứ cây tình độc dược của người Mông này.
            Mới đấy mà đã qua bốn mùa hoa ban nở, rồi tàn. Đúng lúc Toàn sửa soạn thi tốt nghiệp đại học thì trường trung học sư phạm dời lên thị xã. Bố toàn có quyết định nghỉ hưu rồi chuyển về quê dưỡng thọ. Trường trung học sư phạm được nâng cấp thành trường cao đẳng. Mẹ Ngân cũng đã có tuổi, không kịp cho việc học lên thạc sĩ để tiếp tục phục vụ nhiệm vụ cũ, nhưng yêu cầu đã vươn lên một tầm cao mới, nên xin nghỉ một bảy sáu, và cũng về quê. Ngân không theo mẹ vì đúng đợt  thực tập, sau đó ở lại trường ôn thi tốt nghiệp. Với tấm bằng cao đẳng sư phạm tiểu học, Ngân không nghĩ mình trở thành một cô giáo miền xuôi; không nghĩ mĩnh sẽ phải xa núi, xa rừng vốn đã mọc trong mắt và xanh trong máu, nên Ngân nộp hồ sơ xin việc và được điều động lên công tác ở một huyện vùng cao biên giới. Lúc đó Toàn cũng ra trường. Ngân hoàn toàn không hay biết anh đang ở đâu. Kể như hai người mất liên lạc từ bữa đó. Hai lần nghỉ một năm được dành cả cho mẹ già hưu quạnh nơi quê nhà, bởi ngay bố Ngân hy sinh trong chiến tranh biên giới một chín bảy chín cũng được đưa về theo mẹ, thì Ngân không có lý do gì một mình hưởng những ngày nghỉ thanh bình ở cái nơi được coi là mùa quả ngọt của riêng cô.
            Với Toàn, sau khi ra trường, dù không còn ai nhưng anh vẫn tình nguyện lên cái chốn tuổi thơ anh được bao bọc trong màu trắng của hoa ban, vị đắng của măng khôm và vị ngọt của mối tình đầu trong xanh như nước suối. Sau khi nhận công tác ở một Phòng giáo dục ven biên, Toàn về trường sư phạm nhưng không ai biết Ngân đi đâu cả. Toàn đành theo địa chỉ một đồng nghiệp của bố cho, lần về tận quê ngoại Ngân nhưng làng nước nói, vì gia đình ông bà ngoại Ngân là dân khách nên khi ông bà mất là mẹ Ngân không về nữa. Có một lần, hồi mẹ Ngân chưa nghỉ, bà về làng rửa cốt cho hai cụ, rồi hóa và mang tro đi. Toàn ôm nỗi thất vọng tràn trề, bắt chuyến xe đường dài, chạy đẫy hai ngày mới lên tới nơi công tác. Thư viết cho Ngân theo địa chỉ cũ với hy vọng có ngày Ngân quay lại, được bưu điện nơi nhận trả về đắp đống trong ngăn kéo. Vậy là đành lao vào công việc cho vơi đi nỗi nhớ người yêu đến đờ dại. Căn cứ vào ý thức trách nhiệm và năng lực công tác, một thời gian sau Toàn được cử đi học thạc sĩ quản lý để tạo nguồn cán bộ kế cận tương lai.
            Trong lòng Ngân lúc này cũng đã dần quên đi những kỷ niệm, mà sâu thẳm bên trong bản chất của những kỷ niệm ấy là lời thề có mây, có gió, có suối, có rừng và có cả những cánh chim đêm làm chứng. Nay bỗng nhiên xuất hiện như một điều ước trước mặt nhau, cũng giữa núi, giữa mây bay, nhưng có vẻ là lạ và mất đi tất cả nét hồn nhiên ngày nào. Trên khuân mặt chữ điền tương đối hiền từ của Toàn, đã xuất hiện bộ ria như được hóa trang cho một vai xuất chúng, uy nghi, đạo mạo của một diễn viên sân khấu. Chững chạc và đàn ông hơn, nhưng có vẻ e dè, kín đáo. Cả Ngân nữa, cái giản dị có phần phó mặc cho tự nhiên của một sơn nữ, tự lúc nào đã bắt đầu in, nhuộm vào tính cách, sở thích và cả sự chải chuốt của một thiếu nữ thị thành. Và dĩ nhiên là tất cả những thứ đó như một chiếc barie đặt ngang mối quan hệ của hai người, trước khi chưa được xét xử. Bên bờ con suối Tô, Ngân lặng lẽ ném những chiếc lá ngón xuống để cho dòng nước ào ạt xô tới, cuốn phăng đi lơ lắc. Ngân đâu biết dưới hạ nguồn, Toàn vớt tất cả những chiếc lá ấy lên, tết thành một chiếc vòng lớn, rồi men theo bờ suối lần lên thượng nguồn…

***

            Già Tâu giống như một người đàn bà, đảm đang xào nấu suốt những ngày đoàn cán bộ Phòng lên công tác trên đỉnh núi. Già vừa là người cung cấp thực phẩm: Từ việc bắt của bà xã con lợn cắp nách, vác chum rượu ngô, và một gánh lỉnh kỉnh rau, củ, quả; vừa là người chịu trách nhiệm dẫn chương trình từ lễ tân đến  lễ chính. Già vui, già hát bài tuổi mười lăm như cô trăng rằm của dân tộc già. Già bảo bao giờ trong lòng già có mùa xuân già mới hát được, và cái mùa xuân ấy đã hàng chục năm nay nó chợt về. Già không hiểu gì cái dự án gọi là xã hội hóa giáo dục, xóa mù hay tạo nguồn lực tri thức vùng cao để phục vụ vùng cao. Già chỉ biết nay mai bản của già sẽ được gọi là trung tâm cụm bản, tập hợp được cả bảy bản dân tộc trên núi Pu Cáp thành một hàng thẳng như cây tre gai bảy đốt, mà mỗi đốt là một mầm sống. Bản của già sẽ có một trường tiểu học, thu hút toàn bộ trẻ con chăn trâu trên lưng núi này đến để làm người tri thức. Con cháu của bản sẽ cứng bàn chân xuống núi mà học cao hơn, rồi quay về đặt một vai vào ủy ban nhân dân xã. Nhưng già mừng gần hơn và chắc chắn hơn vì nhất định trong bọn chúng nó đã có đứa đảm đương được cái chức trưởng bản hơn mười năm không có người thay của già. Chúng nó hơn hẳn già một cái đầu rồi. Trình độ lớp vỡ lòng của già không theo được lớp hai, lớp ba của chúng nó đâu. Niềm vui của già Tâu, cộng thêm miền hân hoan của bản và câu chuyện của những người xa nhau ngót ba năm không gặp khiến ngôi nhà tạm dân bản dựng bằng nứa lá cho Ngân đỏ lửa tới tận khuya. Hôm chia tay, Toàn lừng chừng mãi, mặc cho chị Thanh và già Tâu đã xuống núi từ lâu. Chiếc vòng lá ngón khô được anh mang theo như một vật giám sát, minh chứng cho mối tình thủy chung, trong sáng của anh nơi phố huyện. Ngân muốn bỏ lại tất cả để ào theo chiếc bóng thân thuộc, gẫy gập vào khe núi của người yêu, đang khuất dần sau bờ dốc. Đúng lúc đó, trong lòng Ngân vang lên câu nói dịu dàng nhưng có vị đá của già Tâu: Cô giáo sẽ đi, nhưng không phải cách ấy!
            Ngân lặng lẽ quay vào, gục mặt xuống gối nhằm che giấu những cặp mắt trẻ thơ, tò mò muốn biết bệnh đau mắt của cô giáo có đủ để được nghỉ học về với con dê, con trâu không. Lúc Ngân ra trường mẹ cũng từng nói với Ngân về cái cảm giác ấy, mỗi khi mẹ phải xa rời tổ ấm ríu ran của ông bà trước kia, rồi của mẹ sau này và mỗi khi bố Ngân khoác chiếc ba lô, khẩu súng lên vai ra đi, để lại tấm lưng vạm vỡ, tan dần vào khoảng không gian có cái cột mốc ghi nhận chủ quyền của Tổ quốc. Đói, rách, nhếch nhác và chán nản nhưng nỗi nghề và niềm mong ước đến khát khao chữ nghĩa của đàn em, khiến ngày xưa bà và bây giờ Ngân vẫn kiên trì trụ vững như cây chai mọc thẳng trên đỉnh núi đá. Cái đạo nghiệp này bà truyền cho Ngân với hy vọng con mình trưởng thành lên từ chính nông sâu chìm nổi ấy. Và Ngân đã đúng khi không chạy theo người yêu về nơi có những ánh đèn màu tươi mát, sáng sủa gấp cả trăm lần cái nốt sáng đùng đục, treo lơ lửng giữa tầng trời nơi Ngân ở.
            Thời gian ì ạch trôi đi, cuối cùng cũng tới ngày Ngân được về nhà xả hơi, tạm chia tay cái mùa hè đầp ắp gió và nắng nơi ngọn nguồn biên ải. Lắm lúc Ngân thấy mình như một nữ tu, luôn miệng cầu khấn và vấn an. Liệu Ngân có nhầm? Đã xấp xỉ hai trăm ngày kể từ khi Toàn lên khảo sát Pu Cáp. Bao nhiêu nỗi niềm gặt được giữa mây hoang gió dại, Ngân chia sẻ cả với Toàn trên những trang giấy, già Tâu ném tọt và lu cở gùi xuống núi. Vẫn bặt âm vô tín. Đã có lúc Ngân nghi ngờ Toàn và, càng nghi ngờ càng muốn làm rõ mọi chuyện. Ngân gửi nhiều thư  hơn, và thời gian chờ đợi cũng mênh mông hơn. Vì thế mà vừa được nghỉ là Ngân hối hả về trường, nhưng con đường liên bản dẫn xuống xã bị trận lũ đầu mùa chặt phăng, không tài nào nối lại để mà vượt qua được. Già Tâu đưa Ngân lên một chiếc mảng bà con đi chợ kết sẵn, xuôi theo dòng suối Tô, rồi cắt đường lội thẳng ra huyện. Chia tay già Tâu ở đầu phố, Ngân tìm ngay vào Phòng giáo dục - nơi làm việc của Toàn thì mới biết, ngay sau khi đi khảo sat Pu Cáp về là Toàn theo đoàn của Sở, lên đường đi học tập kinh nghiệm ở các tỉnh miền núi khác. Sau đó, bố Toàn ở quê đổ bệnh, để tạo điều kiện cho anh có thời gian và khoảng cách thuận lợi chăm sóc bố nên Sở giáo dục đã cho Toàn về Hà Nội học lớp lý luận. Bao nhiêu thư từ gửi lên cho Ngân, Phòng đã chuyển thẳng vào trường trung tâm, nhưng không hiểu vì lý do gì mà Ngân không hề nhận được. Ngay sau khi kết thúc khóa học, Toàn xung phong đi tăng cường vùng cao luôn. Thể theo nguyện vọng của Toàn, nên không một ai nói cho Ngân biết một chút mảy may nào về Toàn. Trong hộc bàn làm việc của anh còn mấy lá thư Ngân gửi, ai đó bỏ vào giúp. Không hỏi gì thêm, Ngân hụt hẫng bắt xe về quê rồi nằm bẹt dí suốt hai tháng nghỉ. Thế là Toàn đã lặng lẽ ra đi không một lời chia biệt. Bao nhiêu lo lắng trong Ngân nay đều đúng cả. Ngân yêu Toàn, thương Toàn không phải vì anh hào hoa lịch thiệp mà chính ở chữ tín được xuất phát ngay từ bên trong nét mắt. Nó ấm áp, ân cần, đầy ắp niềm tin và rất hạnh phúc nên đã làm cho Ngân say và mơ biết bao điều về nó. Ngay từ lúc còn học phổ thông, Ngân đã phát hiện trong đôi mắt ấy chất chứa tận cùng của sự xa xăm nhưng cũng tận cùng của sự tin tưởng. Vẫn biết sự xa xôi ấy chỉ là một phần dự đoán về tâm hồn, tính cách của một con người, nhưng nó đã vô tình đánh trúng vào niềm khao khát của Ngân.
            Đầu năm học mới, Ngân trở lại trường đúng vào ngày huyện nối mạch giao thông với xã qua vùng nước ngập bằng một con đò, đưa từ sông Đà lên. Sau gần một ngày cuốc bộ bì bõm như đi cấy, trong bộ dạng kiệt sức, quần áo bê bết bùn đất, Ngân lê bước vào phòng hiệu trưởng để trả phép. Bất ngờ gặp già Tâu và một thanh niên người Mông quắc thước có ánh mắt hoang dại đã phần nào bị quầng sáng tri thức lấn át, đang ngồi chờ ai với vẻ rất sốt ruột. Nhìn thấy Ngân, già Tâu tíu
tít như một đứa trẻ, trỏ tay vào ngực người thanh niên đang ngó Ngân rực lửa:
   - Thằng Tức đấy, hiệu trưởng đồng ý cho nó dạy chữ trên Pu Cáp rồi. Cô giáo xuống núi nhớ đừng quên bọn trẻ nhé, hết lớp thằng Tức, chúng nó xuống núi theo cô giáo đấy.
            Ngân cũng vui chẳng kém gì già Tâu. Năm học này được Ngân nuôi cấy một sức sống mới, niềm tin mới nên tâm trạng cũng mới hẳn: hào hứng hơn, rắn rỏi hơn và chắc chắn là yêu đời hơn. Ngân hứa hẹn với mọi người một cụm trường tiểu học - mầm non trên Pu Cáp, mà chính Ngân là người tiên phong. Bởi khi Ngân đã biết thì nhất định mong muốn chấm dứt cảnh phụ huynh cõng con em mình đi bộ cả ngày đường xuống núi để được học. Rồi hàng tuần thồ ngô, thồ sắn xuống, một phần đổi lấy dầu, muối, sách bút, một phần để ăn; xong, lại cúc cắc đi bộ một ngày nữa mới về tới bản. Ngân sẽ giúp các em học tại chỗ, bao giờ đôi chân cứng bằng chân con ngựa để vượt qua trùng trùng núi đá, thần kinh vững như thần kinh con hổ dám đi đêm giữa rừng già. Và trí khôn như trí khôn con báo, biết tít trên trời cao lúc nào mưa, lúc nào nắng; tít trong rừng xa nước con suối lúc nào đầy, lúc nào vơi để đi tiếp hay nghỉ lại, nếu không muốn phải ngủ trên cây như loài chồn đen của núi rừng Pu Cáp. Cùng ngồi xuống ghế chờ với già Tâu, bây giờ Ngân mới có dịp quan sát kỹ chàng trai dân tộc Mông tráng kiện, điển trai bởi các khuôn thước mẫu mực. Từ những chi tiết trên bộ mặt sáng sủa đến hình thể như của một chàng kỵ sĩ rừng xanh; mạnh mẽ nhưng lại hết sức nhút nhát và yếu đuối trong việc phải nói ra thay làm. Chính chàng trai ấy đã nhờ cha mua Ngân về làm vợ với tất cả số trâu bò ngót bốn chục con của gia đình anh. Để Ngân vừa lòng, anh bảo sẽ bắt cả bầu trời này, cả núi rừng, muông thú này phải khuất phục, phải làm ô sin, nâng niu gót chân Ngân, coi Ngân như một nàng công chúa. Bỗng nhiên Ngân không thấy sợ cái lời đề nghị thẳng tắp như cây khẻ mu đầy gai ngày nào già Tâu cưỡi ngựa đem đến. Không sợ cả cái tập tục khiến Ngân kinh hoàng khi mới đặt chân tới đây, và nhìn thấy nó đang ký sinh vào đời người phụ nữ Mông. Miếng cơm của cả nhà có no, manh áo cả nhà có lành đều là trách nhiệm của họ. Công việc như một thứ ngục tù, cùm kẹp dai dẳng suốt một đời người. Ăn uống kham khổ, qua quýt để dành phần thức ăn ngon cho chồng đãi khách. Mặc những mảnh vải thừa, can nới chằng chịt nên cần phải có đôi bàn tay không biết nghỉ ngơi cả khi đi trên đường, để không những đỡ rách mà còn trở thành những kiệt tác hoa văn trên nền vải vá. Đêm nằm chỗ dột để nhường cha mẹ, các anh chị em chồng nằm chỗ ấm, chỗ lành. Không đi ngủ trước mười hai giờ khuya vì mải dệt ra những tấm vải may áo cho chồng; hay giã gạo, xay ngô để nuôi lớn đàn con đông nhưng con lợn rừng đẻ ba, bốn lứa. Sáng không ngủ quá ba giờ vì như thế sẽ không kịp vác nước, không kịp nấu cơm bữa trưa cho người ở nhà, và cho mình đi nương… Tất cả chỉ để cho người đàn ông vui thú săn bắn, đánh quay, uống rượu, tập hát, tập khèn và đi bắt những người vợ mới. Đúng là Ngân không sợ, nhưng Ngân sẽ không chịu cái tệ đa thuê của đàn ông Mông. Mọi sự tảo tần nắng mưa khuya sớm phải được đáp trả bằng lòng thủy chung như nhất. Ngân bỗng dưng gạt phắt dòng suy nghĩ đang đóng đinh vào não kể từ khi gặp người con trai kia. Ngân buột đứng dậy, tiến đến đặt lá đơn đề nghị mở thêm lớp ở Pu Cáp xuống bàn làm việc của hiệu trưởng và vô tình mắt bắt phải tên mình đã được sắp xếp một cương vị mới, gắn trên lịch báo giảng. Ngân cảm thấy không được tôn trọng khi Ban giám hiệu và Phòng đơn phương quyết định. Chính nó sẽ như một đòn đánh vào nhiệt huyết của Ngân và đánh cơ hội trưởng thành của lũ trẻ vùng cao. Ngân bồn chồn như người ngồi trên đống lửa. Đợi mãi, đến khi ông mặt trời không còn được nung đỏ nữa, nguội dần rồi tắt lịm phía đầu núi mới thấy trong mờ mịt sương mù đêm vùng cao, bốn năm cô giáo cùng với thầy hiệu trưởng dong từ trên rừng về một xâu em nhỏ. Sắp xếp phòng ngủ cho các em, nấu mì tôm cho các em ăn để mai các em còn thi lại. Xong, thầy hiệu trưởng hất chiếc mũ cói ra sau gáy, tất tải bước vào phòng. Ngân như mọc rễ xuống nền đất nện. Toàn lại đột ngột xuất hiện như một nhân vật ảo của gã phù thủy cao tay, giống hôm nào trên Pu Cáp. Sau phút bàng hoàng, Ngân bỗng thấy hờn giận Toàn vô hạn. Thì ra từ khi biết Ngân dậy ở xã biên giới, Toàn đã nằng nặc xin cấp trên cho vào trường Ngân, dù có phải đánh đổi vị trí quan trọng ở Phòng để làm một giáo viên bình thường, ở một ngôi trường đã bình thường, đã xa xôi cách trở, lại quá nghèo nàn và lạc hậu. Tuy nhiên cũng phải mãi tới lúc thầy hiệu trưởng tiền nhiệm ở đây có đơn xin chuyển vùng, Phòng mới chịu đưa Toàn vào thay thế; mà theo như lời tâm sự của một cán bộ là cho đỡ lãng phí phần nào nguồn nhân lực gốc. Thế nhưng đã vào tới đây rồi lý do gì khiến Toàn không cho Ngân biết? Gặng mãi, Toàn mới nói khi biết được mong ước mở lớp trên Pu Cáp của Ngân gửi về trường trung tâm, rồi trường gửi về Phòng, Toàn đã ngờ ngợ. Đến khi lên khảo sát và biết đích xác là Ngân, thì Toàn tìm đủ mọi cách thuyết phục cấp trên, rồi thuyết phục chính quyền xã, bản và nhân dân trên núi để biến ước mơ của Ngân thành hiện thực. Toàn muốn dành tặng cho Ngân món quà bất ngờ đó. Toàn thú nhận là đã có ý định đưa Ngân về trung tâm để bù đắp ba năm trời vò võ một mình trên đỉnh núi, nhưng bà con trên đó phản đối. Chính vì thế mà khi Ngân thắc mắc, Toàn đã đưa ra tờ quyết định thành lập trường tiểu học số hai và bổ nhiệm Ngân phụ trách trường tiểu học đó, chứ không phải là về dưới thấp như Ngân vẫn tưởng.
            Ngày lên nhận trường. Đi sau đoàn ngựa thồ thiết bị trường học khua móng bụi mù trên con đường mới mà Toàn và nhân dân Pu Cáp mở trong thời gian hai tháng kẹt lũ không về được. Đoạn cuối cuộc hành trình có một chiếc cầu treo bắc tắt qua quãng hẹp của hồ nước ngập, khiến con đường mòn cheo leo, trước đây phải mất một ngày đi bộ thì giờ chỉ còn hai tiếng. Ngân nắm chặt tay Toàn bước đi thoải mái trong giấc mơ xa của Ngân. Trên cao chót vót, nơi có bãi đất gió, túp lều tranh dặt dẹo quen thuộc được thay thế bằng năm phòng học, tuy còn là tre lá nhưng rộng rãi và vững chắc. Xa xa, trên đỉnh Phan - xi - păng, giữa quầng ráng đỏ chợt xuất hiện chiếc cầu ô thước, bắc vắt sang phía núi bên kia - nơi nhìn thấy cả ba nước Đông Dương rõ một một. Có điều, chỉ Ngân mới biết, và biết chắc chắn nhờ linh cảm. Chiếc cầu ô thước ấy không giống chiếc cầu trong truyền thuyết. Nó mãi mãi tồn tại, ít nhất là ở trong ngấn mắt Ngân./

Pu Sam Cáp 21.10.2000

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét