Đã
20 năm tồn tại, thôn 25, xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên với 100%
dân số là thuần nông mà lại không có lấy 1m2 ruộng. Tất cả đều
lam lũ, nhưng là lam lũ cấy thuê gặt mướn. Hết vụ, nhà người ung dung thóc bồ,
lợn chuồng, còn thôn 23 thì đổ người ra đường bán kem, chạy hàng xáo, đồng nát;
thậm chí phải nhặt cả rác thải kiếm sống…
Tàn
tích một cuộc viễn chinh
Cuối
năm 1974, theo tiếng gọi của Đảng, 17 hộ dân xã Trần Phú, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình dắt díu nhau lên khu vực “nội thành” Bản Phủ, xã Noong Hẹt, huyện
Điện Biên, tỉnh Lai Châu (cũ) thành lập HTX tiểu thủ công nghiệp (HTX), chuyên
nghề đật đá nung vôi. 17 hộ bằng 34 con người ngày đêm phục vụ 3 lò vôi liên
hoàn, với khối lượng công việc: Ngót 20 tấn đá đội vào và, gần 10 tấn vôi củ
gánh ra để khử chua cho nửa vạn ha lúa của lòng chảo Mường Thanh (từ năm 1994
trở về trước, lòng chảo Mường Thanh bao gồm cả thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên ngày nay). Bất cứ ai từng lao động đều thấu hiểu nỗi cơ cực của nghề
này. Nổ mìn, đập đá, đóng than, đội đá vào lò, đốt, ra vôi… Hết viêm da mãn
tính do mùn đá lại đến viêm phổi; hơn nữa là ung thư phổi vì thường xuyên hít
thở khói than và… vôi bột. Ông Nguyễn Văn Thanh, chủ nhiệm HTX đầu tiên lên
“đứng lò” được 1 năm thì bỏ về quê chết không rõ nguyên căn. Còn ông Trần Ngọc
Chuyện (đã mất 2005), 15 năm làm nghề đập đá, theo anh con trai Trần Ngọc Luyến
thì ngay từ khi còn làm, bố anh đã bị lao lực nhưng không dám bỏ việc một phần
vì miếng cơm của 6 người con, phần khác vì ước mơ làm mái nhà vôi vữa. Nhưng có
lẽ lý do chính đáng hơn cả là cố theo đuổi lấy cái chế độ be bé khi về già.
Ngày ấy, bằng tinh thần của những người xung phong đi xây dựng kinh tế mới với
hy vọng, trước là làm khá giả nhà mình, sau làm giầu đẹp quê hương mới, nên
khẩu hiệu hiện diện cả trong mỗi bát cơm là: “Làm, làm và làm!”.
Quả
đúng thế, thôn 23 ngày nay đa phần là “nhà ngói, sân gạch”. Cái “nhà ngói” ấy
được hình thành từ những giờ thứ 9, thứ 10, thứ 11… trong ngày, của chính những
chủ nhân lò vôi. 8 tiếng ngày, cả thôn vang lên tiếng búa giáng vào đá hộc. 4
tiếng đêm cả làng lại chìm vào tiếng đập đất, lên quả, cắt gạch… Xong, năn nỉ
mua chịu cho kì được mấy tấn vôi xỉ của HTX, để cất gian… “nhà vôi” mà cả đời
dưới quê cũng chẳng dám mơ. Nhưng đó là khát khao thời quá độ, còn bây giờ,
những ngôi nhà ấy, nhất lại ở Điện Biên - nơi “thổ thần” thường xuyên nổi giận
thì chỉ là những cái bẫy. Xi măng cốt thép kia mà mỗi lần có động đất ở đâu đó
tít bên Đông Á, người ta còn chực ra đường để ở nữa là nhà tường vôi, lại đã
“quá hạn sử dụng”. Như dù gì đi nữa, có người nói, cũng may còn cố được, chứ cứ
đợi chờ thì đến lều cũng chẳng có mà ở…
Không
ruộng, không nghề, không… cả học
Thế
rồi cũng đến ngày cánh đồng Mường Thanh trở nên ngọt ngào nên vôi thau chua
bỗng dưng biến thành… lạc hậu. Vôi xây dựng thì quá xa (cách trung tâm thị trấn
huyện Điện Biên 9km), nên không cạnh tranh nổi với hàng loạt lò vôi tư nhân thi
nhau mọc lên ngay sát nách công trình. Vậy là HTX lò vôi phá sản (1989). Chuyện
thường tình của cơ chế, nhưng đáng bàn là, sau khi giải tán, mấy chục con người
đã có thâm niên 15 năm đóng góp cho vựa lúa số 1 của Tây Bắc - tiền đề để cho
những thương hiệu gạo nổi tiếng Bắc Thơm, IR64… Điện Biên ra đời - mà cả thôn
lại không có lấy 1m2 đất canh tác để chuyển đổi ngành nghề,
hòng cứu vớt những số phận nhiều năm không lương do sản phẩm làm ra ế ẩm(?)
“Những con người bị lãng quên” ấy chỉ còn biết túa đi các ngả làm thuê cuốc
mướn. Ruộng vườn của Mường Thanh, Nhà nước đã quy hoạch cả rồi, chẳng có đâu ra
mà chia cho người… “công nghiệp” cả. Mà có chia thì cũng ráng đợi hết 20 năm
của chu kỳ giao nhận (khoảng 2015), lúc ấy Nhà nước sẽ giũ rối ra, chia lại cho
phù hợp với sự tăng trưởng về… nhân khẩu. Vài nhà nhớ nghề cha ông, vượt ngót 2
km sang bên kia suối thuê vài ngàn m2 đất để trồng ngô, nhưng
vì là đất nằm trên địa bàn xã khác nên rồi cũng phải trắng tay về. Vậy là nhà
thì chọn cách nấu rượu nuôi lợn, nhà đi bán kem, tráng bánh cuốn, đồng nát…;
thậm chí có nhà phải nhặt rác thải để bán tái sinh, kiếm sống. Đã hơn 20 năm không
làm vôi, và cũng 20 năm sáp nhập vào thành 1 thôn của xã Noong Hẹt rồi mà 17 hộ
dân ban đầu vẫn không thoát khỏi cảnh chạy ăn từng bữa. Bà Vũ Thị Phương đã
ngoài 50 tuổi, hàng ngày vẫn lặn lội khắp các bản vùng cao kiếm từng cân thóc,
cân ngô về nuôi đàn con thay cho ông chồng đoản mệnh. Cậu con trai cả của bà
lấy vợ, kế luôn nghiệp mẹ “đổi bản”, phụ giúp nuôi 5 đứa em chưa biết tương lai
ra sao. ở thôn 23 còn rất nhiều người làm nghề mang kem, mắm, muối, thịt, cá,
rau, quả... lên các xã, bản vùng cao đổi lương thực như thế.
Anh
Nguyễn Văn Phong cho đến giờ vẫn không làm nổi căn nhà vững trãi. Sau khi HTX
tan rã, anh làm nghề giăng lưới, quăng chài dọc khắp các sông, suối trên địa
bàn. Bất kể mưa nắng, có những chuyến anh đi 3 - 4 ngày mới mang về vài cân
gạo. Hồi thành lập HTX, thôn 23 chỉ có 17 hộ, nay tăng lên 54 hộ, 220 khẩu cả
con cháu các HTX viên lò vôi, cả cư dân di thực; thế nhưng, cái thôn phần đa là
hộ nghèo này (nghèo nhất xã) hầu như chỉ còn người già và con trẻ. Mỗi khi thôn
có hiếu, hỷ thì gia đình hoặc chính quyền phải nhờ người từ các thôn lân cận
đến giúp… Bên cạnh nhà anh Nguyễn Văn Phong bây giờ, còn nguyên tàn tích lò vôi
năm xưa. Mặc dù đã hơn 20 năm kể từ khi thôi đỏ lửa, không ai ở thôn 23 có ý
định đập nó đi, đơn giản chỉ muốn để kỉ niệm một thời viễn chinh cơ cực. Nói
cho thật công bằng thì nó vẫn còn là của nhà nước. Vợ chồng anh chị Hải -
Huyền, con trai cựu HTX viên lò vôi Điệp - Thực, do không có đất ở, năm 2007
liều ra dựng cạnh cái móng lò vôi vài gian nhà tre, nhưng rồi chẳng cần Nhà
nước nào nhắc nhở “tội chiếm dụng đất công” đã phải bỏ chạy vào huyện vùng sâu
Điện Biên Đông, làm bánh cuốn bán qua ngày. Ngôi nhà theo thời gian chỉ còn
toàn xương xẩu. Vợ chồng anh chị Bình - Mạch ở Hưng Hà (Thái Bình) lên mua lại
căn nhà của bà Soạn đã hơn chục năm nay, nhưng rồi cũng như phần đa thanh niên
trong thôn phải bỏ đi vào vùng sâu lập nghiệp. Căn nhà xây cấp 4 cũ và 500 m2 vườn,
ao… anh rao bán với cái giá như cho, nhưng chẳng ai ngó ngàng chỉ vì họ sợ thôn
đất… “chết”!
Ông
Nguyễn Quang Láng, nguyên Phó Chủ nhiệm HTX, năm nay 73 tuổi đã từng lo xa suốt
35 năm qua, nay vẫn tiếp tục lo xa: “Con cái chúng tôi 100% thất học. Hàng chục
tráng nam, tráng nữ hoạt bát, nhanh nhẹn mà bói không ra một mống được làm đến…
cán bộ xã! Thế hệ thứ 3 thì còn đang học, nhưng cũng đã lác đác bỏ dở bút
nghiêm theo nghiệp bán kem của bố mẹ. Nhà nước không thể để như thế được chứ… ?”
Và,
những con người bị bỏ quên
Bà
Nguyễn Thị Thuận bị tai biến mạch máu não nhưng vẫn ở một mình trong ngôi nhà
vôi vữa làm năm 1983
Bà
Nguyễn Thị Thuận, 70 tuổi (vợ ông Trần Ngọc Chuyện, đã mất) trước khi lên Lai
Châu và trở thành chuyên gia đội đá, ra lò đã từng là cô giáo dạy vỡ lòng (nay
là mẫu giáo lớn) 14 năm, từ 1960 - 1974 tại thôn Thị An, xã Trần Phú. Như vậy
là cộng với 15 năm làm vôi, bà Thuận có 29 năm cống hiến liên tục cho Nhà nước,
thế nhưng đến khi được nghỉ thì lại là… nghỉ khỏe(!) Mặc dù bà Thuận cũng như
hơn 3 chục xã viên HTX lò vôi không biết kêu trời, nhưng những người có trách
nhiệm cũng không thể bỏ quên họ như thế. Không ruộng, không ngành nghề, không
chế độ… cho dù chỉ là mấy đồng phụ cấp mất sức cho một nghề thủ công cơ cực và
độc hại. Không ai có thể hình dung nổi, những bà Thuận, bà Loa và nhiều người
khác nữa, từ năm 1974 đến giờ chưa một lần được về thăm lại mồ mả ông cha, thăm
lại nơi chôn nhau cắt rốn. Đơn giản chỉ vì không có tiền. Suốt buổi ngồi lê
trên bậc thềm tiếp chuyện nhà báo, đôi mắt già ngân ngấn nhìn vào xa xăm như
thể nhìn vào món nợ lớn của đời người. Bà Thuận bị tai biến mạch máu não, di
chứng liệt nửa người. Đã ba năm nay bà sống bằng rau cháo của hai người con là
Trần Ngọc Luyện và Trần Ngọc Luyến. Một anh phụ xây, một anh đồng nát, mỗi anh
nuôi mẹ một tuần. Còn 2 cô em gái đi lấy chồng thiên hạ và hai cậu em trai áp
út đang ở nhờ nhà vợ trên thành phố để chạy xe ôm thì miễn nuôi mẹ, vì rất
nhiều lý do, nhưng lý do chính đáng nhất vẫn là nỗi niềm cơm áo. Bà Thuận bảo,
bệnh của bà phải uống thuốc dài ngày nhưng vì ăn nhờ con 100% nên không dám đòi
hỏi. Bà nói trong nỗi day dứt nghẹn ngào: “Cả con trai, con dâu đều tốt. Nó cho
ăn, cho mặc để được sống mà nhìn thấy chúng nó, còn đòi hỏi gì. Tôi vẫn sướng
hơn ối người vì còn được nhờ con. Cảm ơn Nhà nước cho cái chế độ… hộ nghèo, mỗi
năm được mấy trăm và một ít thuốc!” Vâng, chúng tôi biết, cũng là “3 không” như
cả thôn, các bà còn có cái không thứ 4 là “không thu nhập”. Bà Thuận vẫn còn
sướng chán, chứ như bà Lê Thị Toán, 80 tuổi đầu, sinh hạ 7 đứa con thì chồng
mất, 5 đứa khôn lớn bay xa… còn lại 2 thằng con nghiện ngày đêm đẽo kì cạch vào
xương bà lão…
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét