Để
rộng đường dư luận về cuộc phê phán luận văn của Nhã Thuyên, chúng tôi xin giới
thiệu bài viết “Cuộc phê phán
luận văn của Đỗ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ?”
của GS - TS Trần Đình Sử (nguyên cán bộ trường Đại học Sư phạm Hà Nội) bạn
quan tâm tham khảo.
--------------------------------------------------------------------
GS
- TS Trần Đình Sử
1.Một
cách hành xử quá nóng vội
Cuộc phê phán luận văn thạc sĩ năm 2010 của
giảng viên đại học Đỗ Thị Thoan hiện đang rầm rộ khắp cả nước, trên các báo
lớn, báo nhỏ với đủ các từ quy kết nặng nề như “phản văn hóa”. “phản động,”,
“mượn danh khoa học để làm chính trị”, “ngụy khoa học”, “sự lệch chuẩn”, “sự
nổi dậy của rác thối”, tham vọng soán ngôi của thơ rác…Một đám cháy đang bùng
lên dữ dội trên văn dàn. Mật độ cấp tập của sự phê phán không kém gì với
các cuộc phê phán tác phẩm Vào đời của Hà
Minh Tuân năm xưa mà tôi đã nhắc đến với sự xử lí oan đối với cả cuộc đời nhà
văn đại tá quân đội. Đồng thời với sự phê phán là các đề nghị cách chức, xử lí
những người hữu quan, và thực tế đã không tiếp tục kí hợp đồng giảng dạy với cô
giáo Nhã Thuyên một cách vội vàng, chưa đủ thủ tục pháp lí. Thông thường người
ta chỉ xử lí sau khi đã nghị án rõ ràng, có người bào chữa, có ý kiến của đương
sự. Đằng này tất cả đều làm rất nhanh, bên trên, sau lưng đương sự, thiếu các
thủ tục dân chủ tối thiểu trong một xã hội được coi là đề cao dân chủ thì thật
tiếc là thiếu sự đàng hoàng. Tại sao chúng ta không tổ chức đối thoại, nêu câu
hỏi để yêu cầu nhà khoa học trẻ giải trình, mà chỉ cho phép phê phán, như là
một tội lỗi đương nhiên không cần bàn cãi? Tại sao chúng ta lại hành xử một sự
kiện văn hóa một cách thô bạo, y như hồi những năm 50, 60, khi chúng ta đang
còn ít kinh nghiệm? Giả thử luận văn thạc sĩ Đỗ Thị Thoan có sai lầm
nghiêm trọng chăng nữa thì cũng cho người ta cơ hội để nhận thức và sửa chữa,
tương lai của cô còn rất dài, chọn được một người có trình độ học thức để làm
giảng viên đại học đâu phải câu chuyện dễ? Chúng ta phải tin vào con người. Mọi
sự đều sẽ thay đổi, không có gì là bất biến.
Thái độ ứng xử vơi Hội đồng chấm luận văn và
người hướng dẫn cũng vậy. Họ là nhứng người làm việc hợp pháp theo quy chế của
ngành, thống nhất trong toàn quốc, lẽ ra phải được quy chế bảo vệ. Nay có một ý
kiến hô lên có vấn đề, thế là lập túc đòi xử lí họ, vô hiệu hóa họ. Điều này
tạo ra một tiền lệ nguy hiểm sẽ phá hoại bản thân nền đào tạo trên đại học của
nước nhà. Nay mai, sẽ có người khác hô lên, luận án này có vấn đề, luận án kia
có vấn đề, thế là lại xử lí, mà ý kiến bất đồng trong khoa học xã hội và nhân
văn bao giờ cũng có, nhất là trong thời buổi nhạy cảm như hôm nay. Sự đánh giá
của các hội đồng và các cá nhân thông thường không khớp nhau. Người ngoài hội
đồng cũng thường có ý kiến khác. Theo tôi, làm to chuyện một vấn đề không lớn
không phải là giải pháp hay.
2.
Sự xung đột về thế hệ
Nhã Thuyên thuộc thế hệ trí thức học tiếng Anh
đầu tiên, một chủ trương sáng suốt của ngành giáo dục, học sinh phải học tiếng
Anh từ tiểu học, các luận văn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ đề phải có trích dẫn
tài liệu tiếng Anh. Mà đã học tiếng Anh thì đương nhiên tiếp thu văn hóa của thế
giới tiếng Anh, trong đó ý thức về đa nguyên văn hóa là điều trở thành niềm tin
tự nhiên của nền văn hóa ấy. Mà nếu ngày nay có lưu học ở Trung Quốc hay lưu
học ở Nga, Ucraina, thì ở các nước đó văn hóa đa nguyên cũng đã là niềm tin tự
nhiên rồi. Thế hệ trẻ tương lai của đất nước ta là một thế hệ như thế, không có
thế hệ khác. Tôi không nói đa nguyên chính trị ở đây, chỉ riêng đa nguyên văn
hóa ở Việt Nam
cũng đang là một thực tế mà ta không thể phủ nhận. Các loại triết thuyết, các
loại tôn giáo, tín ngưỡng đều có, tất nhiên sắp xếp theo một trật tự của ý thức
hệ thống trị. Luận văn được viết ra trên một thực tế là văn hóa, văn học chúng
ta là một thực thể đa nguyên, trong đó có trung tâm và bên lề luôn luôn xung
đột. Trung tâm dĩ nhiên là đối tượng chủ yếu của nghiên cứu rồi, mà các hiện
tượng bên lề cũng là đối tượng đáng được nghiên cứu. Đối với các nhà phê bình
văn học thế hệ trước, trong đó có tôi, chúng ta tin văn hóa, văn học chỉ có
trung tâm, ngoài ra là thù địch, không có ngoại biên, bên lề, không có cái
khác, do đó khi tiếp cận luận văn này rất lấy làm bức xúc. Qủa thật, điểm danh
các tác giả tham gia phê phán luận văn thạc sĩ này như Chu Giang Nguyễn Văn
Lưu, Phong Lê, Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Thiện, Văn Chinh…đều thuộc thế hệ trước. Sự
khác biệt thế hệ khó hiểu nhau, thế hệ mới nói những điều mà thể hệ trước khó
hoặc không thể hiểu được, thế là xảy ra xung đột đã làm tóe lửa, tạo thành đám
cháy lớn trên văn đàn và thiệt hại cho các cá nhân hữu quan. Nếu không suy nghĩ
đến vấn đề này thì sẽ còn xảy ra xô xát nhiều nữa, mà thiệt hại trực tiếp sẽ là
sự tiến bộ của nền khoa học nước nhà, mặc dù mọi nghị quyết của Đảng đều thiết
tha mong mỏi để cho nền khoa học nước nhà tiến kịp trình độ các nước trong khu
vực và các nước tiến tiến trên thế giới. Nếu xử lí không thỏa đáng sẽ làm e sợ,
giảm sút nhu cầu tiến bộ của cả một thể hệ mới.
3.
Sự xung đột về khung tri thức khoa học hay là hệ hình khoa học
Trung tâm và ngoại biên là một cặp khái niệm
để mô tả cấu trúc của các nền văn hóa và văn học. Có trung tâm thì có ngoại
biên. Nếu chủ đề yêu nước, chủ nghĩa xã hội là chủ đề trung tâm của văn học thì
các chủ đề như nữ quyền, hậu thực dân, tân lịch sử, giới tính…là các chủ đề
ngoại biên. Nếu lí luận mác xít đối với nước ta là trung tâm, thì các lí thuyết
khác như phân tâm học, cấu trúc luận, kí hiệu học, tự sự học… là ngoại biên.
Nếu văn học dân tộc Kinh là trung tâm, thì văn học các dân tộc ít người là
ngoại biên. Nếu văn học cách mạng là trung tâm thì các biểu hiện lệch lạc trước
đây là văn học ngoại biên. Trong thơ Tố Hữu, các bài thơ tình của ông là ngoại
biên. Trong sáng tac của Nguyễn Đình Thi, Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông
Quan là ngoại biên. Trong Kháng chiến chống Pháp, trong
sổ tay thơ của các chiến sĩ, ngoài các bài thơ cách mạng của Tố Hữu, Chính Hữu,
thế nào cũng có đôi bài thơ mới của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… như là một thứ ngoại
biên, phải giấu kĩ, nếu bị phát hiện thì không phải đùa. Trong xuất bản hôm
nay, các thứ thơ như Bóng chữ, thơ Trần
Dần thực ra vốn là thơ ngoại biên, bên lề. Nói gọn lại, toàn bộ các tác phẩm bị
cấm đoán, bị phê phán trong giai đoạn trước đều là thứ văn học ngoại biên. Các
tác phẩm, tác giả văn học đô thị miền Nam được xuất bản hôm nay đều bị
coi là ngoại biên. Trong báo chí hôm nay, các bài viết theo kiểu “chuyện hôm nay
mới kể” là các đề tài ngoại biên, bởi thời trước không thể kể ra được. Văn học
dân gian hiện đại rất sống động và phát triển, nhưng ngoài truyện vui Ba Phi,
thơ Bút tre ra đều là ngoại biên hết. Văn hóa dân gian quá khức, như ca dao,
tục ngữ có phân thanh và phần tục, như các bộ “Kho tàng” thì chỉ ghi phần
thanh, loại bỏ phần tục vì coi chúng là “không có tính giáo dục”. Đó là cách
tự làm nghèo vốn dân gian của ta. Cấu trúc văn học không đối xứng, trật
tự thường là không bình đẳng. Đó là sự thật lịch sử mà ai cũng biết.
Trong công cuộc đổi mới văn học của chúng ta
hôm nay vấn đề đổi mới thơ, đổi mới văn học đã trở thành một vấn đề của trung
tâm, được trung tâm quan tâm. Trong các thời trước, đổi mới, làm thơ không vần
như Nguyễn Đình Thi là bị cấm, coi là bất hợp pháp. Đổi mới thơ như Hoàng Hưng,
Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng cũng từng bị phê phán. Nhưng trong đổi mới
thơ cũng có trung tâm và ngoại biên. Đổi mới kiểu Nguyễn Quang Thiều hôm nay
được coi là trung tâm, nhưng khi mới xuất hiện, đối với một số người là ngoại
biên, là thơ tây dịch sang thơ ta. Thơ của nhóm “Mở miệng” cũng là một thứ
ngoại biên. Chúng ta có thể không thích nó, thậm chí ghét bỏ nó, nhưng nó vẫn
là một phần, dù là rất bé nhỏ, rất phụ, đã lui vào quá khứ của quá trình văn học.
Hiểu như thế mọi hiện tượng văn học ngoại biên đều đáng được xem xét, đều có ý
nghĩa để soi sáng lịch sử văn học từ chỗ này hay chỗ khác. Vì vậy tạo ra vùng
cấm trong nghiên cứu văn học là không nên. Điều này đúng như nhà lí luận văn
học Lã Nguyên trong bài tham luận tại Hội nghị lí luận phê bình văn học Tam
Đảo, đã được tạp chí của Hội đồng lí luận phê bình văn học nghệ thuật trung
ương đăng tải, muốn đổi mới phê bình văn học của chúng ta nhất thiết phải đổi
mới khung tri thức lí thuyết, nếu không các sự cố do không hiểu nhau, hiểu
nhầm, hiểu chệch sẽ xảy ra nhiều hơn, gây xáo trộn nhiều hơn trong đời sống
bình thường.
4.
Đối với trường Đại học sư phạm Hà Nội
Đại học sư phạm Hà Nội là một trường lớn của
Quốc gia, để xảy ra một việc như trên là đáng tiếc. Tôi mong Khoa Ngữ văn, Ban
Giám hiệu, các tổ Bộ môn cần có sự rút kinh nghiệm sâu sắc để làm tốt công tác
đào tạo của mình.
Trong bài này chúng tôi chưa muốn nêu ý kiến
về luận văn của Đỗ Thị Thoan, mà chỉ mới nêu vấn đề về cung cách xử lí vấn đề,
sự xung đột thế hệ và xung đột về hệ hình nghiên cứu. Vấn đề là có đáng huy
động lực lượng để làm một chiến dịch to lớn quy mô toàn quốc như thế không? Tôi
mong sao những người có trách nhiệm đã sáng suốt đứng ra xử lí rất tốt sự cốCánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư năm nào, thì
nay sẽ lại góp phần làm giảm bớt tính nghiêm trọng đối với một luận văn cao
học.
16 - 7 - 2013
Tôi thích bài viết này của thầy Trần Đình Sử. Một cách viết khoa học, có tình có lý. Tôi nghĩ trước khi nhận xét điều gì ta cần thận trọng, đọc kỹ, tránh quy chụp. DHSP vẫn là một địa chỉ đáng tin cậy trong đào tạọ.Nhà giáo Nguyễn Thị Bình là một nhân cách tốt, một người say mê nghiên cứu. Tôi đang tò mò tìm đọc tập thơ ấy đây!
Trả lờiXóa